Mỹ coi thường quân đội Nga

Thứ Ba, tháng 9 10, 2013 |

Mỹ coi thường quân đội Nga

(Lực lượng vũ trang)- Kho vũ khí hạt nhân của Nga cho phép nước này coi mình là một cường quốc, song về vũ khí thông thường Nga không phải là một cường quốc.


Đây là nhận định mới nhất về sức mạnh quân sự của Nga do Tham mưu trưởng liên quân Mỹ Martin Dempsey đưa ra trong phiên điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ.
Đây là phiên điều trần về kế hoạch tấn công quân sự vào Syria.
Tham gia điều trần có Ngoại trưởng John Kerry, Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel và ông Martin Dempsey.
Sức mạnh quân sự của Nga được đề cập bởi đây là một trong những đồng minh chủ chốt của Syria và là “rào cản” đối với Mỹ cả trên bàn hội nghị (tại Hội đồng Bảo an LHQ) lẫn trên thực địa.
Tham mưu trưởng liên quân Mỹ Martin Dempsey
Tham mưu trưởng liên quân Mỹ Martin Dempsey
Bình luận về phát biểu của ông Martin Dempsey, giới chuyên gia Nga cũng tỏ ra đồng tình với quan điểm này. Phó Chủ tịch thứ nhất Viện nghiên cứu các vấn đề địa chính trị Nga, ông Konstantin Sivkov cho biết nhận xét của ông Dempsey không “xa” so với thực tế.
Ông Sivkov nói: “Tôi nghĩ Nga không nằm trong số các cường quốc nếu đề cấp tới tiềm lực quân sự và diện tích của Nga. Nga hiện chỉ tương đương với Bỉ”- Báo Vzglyad của Nga dẫn lời ông Sivkov.

Theo đó, quân đội Nga hiện chỉ có khả năng giải quyết đồng thời dưới 2 cuộc xung đột vũ trang tương đương quy mô cuộc chiến Chesnia. Ông Sivkov cho rằng để giải quyết một cuộc xung đột khu vực, Nga cần lực lượng khoảng 500.000 quân.
Những chiến dịch kiểu như “Bão táp sa mạc” chỉ là hạng “thông thường” mà Mỹ tiến hành thường xuyên. Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã huy động tới 1,5 triệu binh sĩ. Trong khi đó, Nga hiện chỉ có thể huy động hoảng 250.00 quân cho một cuộc chiến.

Mỹ chỉ đánh giá cao Nga về lĩnh vực vũ khí hạt nhân
Mỹ chỉ đánh giá cao Nga về lĩnh vực vũ khí hạt nhân
Về hải quân, ông Sivkov cho rằng Hạm đội Biển Bắc của Nga hiện chỉ có khả năng giải quyết hiệu quả nhiệm vụ của một cụm tàu sân bay tấn công.
Trong khi đó, Mỹ hiện có khả năng huy động cùng lúc tới 4 cụm như vậy trong trường hợp xảy ra xung đột. Chỉ riêng Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đã có khả năng giải quyết nhiệm vụ của 2 cụm tàu sân bay tấn công và Mỹ có tới 6 hạm đội như vậy.

Chuyên gia của Nga thậm chí còn cho rằng Hạm đội Biển Đen của Nga hiện chỉ tương đương với một cụm tàu tấn công mặt nước mà chỉ riêng Hạm đội 6 của Mỹ đã có quy mô gấp 10 lần như vậy.
Ông Sivkov lấy ví dụ: “Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ có tới gần 30 tàu ngầm. Trong khi đó Hạm đội Biển Đen của Nga (gần Thổ Nhĩ Kỳ) chỉ có duy nhất một chiếc. Nói đến những tàu chiến mà Nga điều tới Địa Trung Hải trong bối cảnh Mỹ dọa tấn công Syria, ông Sivkov cho rằng chúng có thể bị tiêu diệt trong 20 phút.

Tuy nhiên, cũng có những ý kiến trái chiều. Ông Igor Korochenko, Tổng biên tập tạp chí Quốc phòng của Nga cho rằng Nga không xây dựng quân đội như của Mỹ. Quân đội Nga có nhiệm vụ hoàn toàn khác. Ông Korochenko nói: “Về trang bị, cả 4 quân khu của Nga thời gian qua đã được đồng bộ hóa đủ để đáp trả những nguy cơ trong khu vực chịu trách nhiệm của mình”.
Các tàu khu trục USS Vicksburg (CG 69), USS Roosevelt (DDG 80), USS Carney (DDG 64) và USS The Sullivans (DDG 68) của Mỹ đồng loạt phóng tên lửa hành trình
Các tàu khu trục USS Vicksburg (CG 69), USS Roosevelt (DDG 80), USS Carney (DDG 64) và USS The Sullivans (DDG 68) của Mỹ đồng loạt phóng tên lửa hành trình
Ông Korochenko cho rằng trong những năm qua, Nga đã giành sự quan tâm đáng kể đối với việc phát triển khả năng về vũ khí thông thường. Đó chính là chương trình trang bị vũ khí cho quân đội đến năm 2020 với tỷ lệ trang bị mới đạt 70%.
Ông Korochenko nói: “Đây là chỉ số không hề tồi. Hiện Nga vẫn chủ yếu sử dụng các vũ khí cũ từ thời Liên Xô, nhưng hiện đang có những thay đổi rõ rệt”. Những ví dụ chuyên gia này dẫn ra như việc Nga đưa vào trang bị tên lửa Iskander-M, hệ thống tên lửa S-400 cùng hàng loạt các vũ khí hiện đại khác.
Theo kế hoạch, trong năm 2015, Nga sẽ bắt đầu đưa vào trang bị xe tăng thế hệ 5 Armata với tổng số lượng lên tới 2.200 chiếc.
Ngoài ra, Không quân Nga cũng đưa vào trang bị đại trà các loại máy bay hiện đại như cường kích Su-34, tiêm kích Su-35 cùng 1.200 trực thăng các loại.

Về vũ khí hạt nhân, ông Korochenko đánh giá Nga vẫn là một siêu cường. Chuyên gia này nói: “Kẻ xâm lược tiềm tàng hãy tưởng tượng nếu khai chiến chống lại Nga, Nga sẽ đáp trả bằng các loại vũ khí hạt nhân chiến thuật và chiến lược.
Trong bất kỳ tình huống nào, đây sẽ là yếu tố cân bằng các cơ hội và ổn định tình hình xung quanh biên giới Nga”.
Read more…

Việt Nam có radar cảnh giới tối tân nhất thế giới

Thứ Ba, tháng 9 03, 2013 |

Soha.vn) - Quân chủng Phòng không-Không quân quân đội nhân dân Việt Nam được đầu tư rất nhiều hệ thống radar cảnh giới tối tân hàng đầu thế giới hiện nay.

Cảnh báo sớm đường không trên mặt đất có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo an ninh chủ quyền quốc gia trước sự xâm phạm bằng đường không của các thế lực thù địch. Radar cảnh giới là những “đôi mắt thần” phát hiện, dẫn đường cho vũ khí phòng không tấn công tiêu diệt mục tiêu.
Trong tác chiến phòng không hiện đại, điều quan trọng không phải là tên lửa có tầm bắn xa bao nhiêu mà radar có phát hiện và dẫn đường cho tên lửa tấn công mục tiêu hay không. Ý thức được tầm quan trọng của hệ thống radar cảnh giới, Quân chủng Phòng không-Không quân Quân đội nhân dân Việt Nam đã được đầu tư rất nhiều hệ thống radar trinh sát tối tân hàng đầu thế giới hiện nay.
Đài radar trinh sát tối tân 55Zh6UE Nebo-UE. Đây là loại radar mạng pha kỹ thuật số 3 tọa độ. Trên thế giới không có loại radar nào có tính năng tương tự như Nebo-UE, tầm phát hiện mục tiêu 400 km, tầm cao tối đa 65 km, số lượng mục tiêu theo dõi cùng lúc lên đến 100 mục tiêu.
Đài radar trinh sát tối tân 55Zh6UE Nebo-UE. Đây là loại radar mạng pha kỹ thuật số 3 tọa độ. Trên thế giới không có loại radar nào có tính năng tương tự như Nebo-UE, tầm phát hiện mục tiêu 400 km, tầm cao tối đa 65 km, số lượng mục tiêu theo dõi cùng lúc lên đến 100 mục tiêu.

Radar cảnh giới chuyên phát hiện máy bay tàng hình Vostock-E, Việt Nam gọi là RV-01. Đây là loại radar cảnh giới không có đối thủ tại châu Á. RV-01 có khả năng phát hiện máy bay tàng hình F-117A ở cự ly 72 km trong môi trường nhiễu nặng, tầm phát hiện máy bay khác không dưới 360 km, số mục tiêu theo dõi cùng lúc 120.
Radar cảnh giới chuyên phát hiện máy bay tàng hình Vostock-E, Việt Nam gọi là RV-01. Đây là loại radar cảnh giới không có đối thủ tại châu Á. RV-01 có khả năng phát hiện máy bay tàng hình F-117A ở cự ly 72 km trong môi trường nhiễu nặng, tầm phát hiện máy bay khác không dưới 360 km, số mục tiêu theo dõi cùng lúc 120.

Hệ thống trinh sát điện tử thụ động Kolchuga. Đây là hệ thống radar thụ động chuyên phát hiện máy bay tàng hình tối tân nhất thế giới hiện nay. Kolchuga có khả năng phát hiện mục tiêu bay ở độ cao 10 km từ khoảng cách 450 km, nếu bay ở độ cao 20 km tầm phát hiện lên đến 620 km. Do hoạt động theo nguyên lý thu nhận tín hiệu mục tiêu mà không phát sóng  nên nó gần như miễn nhiễm với các loại tên lửa chống bức xạ hoạt động theo nguyên lý bám theo cánh sóng radar.
Hệ thống trinh sát điện tử thụ động Kolchuga do Belarus sản xuất. Đây là hệ thống radar thụ động chuyên phát hiện máy bay tàng hình tối tân nhất thế giới hiện nay. Kolchuga có khả năng phát hiện mục tiêu bay ở độ cao 10 km từ khoảng cách 450 km, nếu bay ở độ cao 20 km tầm phát hiện lên đến 620 km. Do hoạt động theo nguyên lý thu nhận tín hiệu mục tiêu mà không phát sóng nên nó gần như miễn nhiễm với các loại tên lửa chống bức xạ hoạt động theo nguyên lý bám theo cánh sóng radar.

Hệ thống trinh sát điện tử thụ động Vera do CH Séc sản xuất cùng với Kolchuga là những hệ thống bắt máy bay tàng hình tốt nhất hiện nay. Tầm trinh sát của hệ thống không dưới 450km, số lượng mục tiêu phát hiện cùng lúc từ 70-100 mục tiêu.
Hệ thống trinh sát điện tử thụ động Vera do CH Séc sản xuất cùng với Kolchuga là những hệ thống bắt máy bay tàng hình tốt nhất hiện nay. Tầm trinh sát của hệ thống không dưới 450km, số lượng mục tiêu phát hiện cùng lúc từ 70-100 mục tiêu.

Radar nhìn vòng bắt thấp 3 tham số 39N6 Kasta-2E2 chuyên thực hiện nhiệm vụ phát hiện các mục tiêu bay thấp như tên lửa hành trình, máy bay không người lái. Phạm vi trinh sát tối đa 150km, radar này có khả năng phát hiện mục tiêu bay ở độ cao dưới 100m từ khoảng cách tới 55km.
Radar nhìn vòng bắt thấp 3 tham số 39N6 Kasta-2E2 chuyên thực hiện nhiệm vụ phát hiện các mục tiêu bay thấp như tên lửa hành trình, máy bay không người lái. Phạm vi trinh sát tối đa 150km, radar này có khả năng phát hiện mục tiêu bay ở độ cao dưới 100m từ khoảng cách tới 55km.

Radar nhìn vòng mọi độ cao 96L6E thuộc tổ hợp tên lửa phòng không tầm xa S-300PMU1. Radar có phạm vi trinh sát tới 400km, số lượng mục tiêu phát hiện cùng lúc 150 mục tiêu.
Radar nhìn vòng mọi độ cao 3 tham số 96L6E thuộc tổ hợp tên lửa phòng không tầm xa S-300PMU1. Radar có phạm vi trinh sát tới 400km, số lượng mục tiêu phát hiện cùng lúc 150 mục tiêu.

Radar di động 3 tham số 36D6E, đây là thành phần quan trọng trọng việc hỗ trợ điều khiển cho hệ thống phòng không tích hợp S-300PMU1+. Radar có thể xữ lý 120 mục tiêu cùng lúc trong đó có 30-60  mục tiêu được xữ lý trong chế độ tự động.
Radar di động 3 tham số 36D6E, đây là thành phần quan trọng trọng việc hỗ trợ điều khiển cho hệ thống phòng không tích hợp S-300PMU1+. Radar có thể xử lý 120 mục tiêu cùng lúc trong đó có 30-60 mục tiêu được xữ lý trong chế độ tự động.

Radar giám sát hàng hải Coast Watcher 100, đây là loại radar được thiết kế với công nghệ tối tân có thể phát hiện các mục tiêu ngoài giới hạn đường chân trời mà các radar thông thường không làm được.
Radar giám sát hàng hải Coast Watcher 100, đây là loại radar được thiết kế với công nghệ tối tân có thể phát hiện các mục tiêu ngoài giới hạn đường chân trời mà các radar thông thường không làm được.

Radar trinh sát tầm xa 2 tham số P-14, radar này có phạm vi trinh sát tới 400km, tầm cao 33km.
Radar trinh sát tầm xa 2 tham số P-14, radar này có phạm vi trinh sát tới 400km, tầm cao 33km.

Radar trinh sát tầm xa P-18, radar này có phạm vi trinh sát tối đa 250km. Loại radar này tại Việt Nam đã được nâng cấp lên tiêu chuẩn P-18M với khả năng kháng nhiễu tối hơn.
Radar trinh sát tầm xa P-18, radar này có phạm vi trinh sát tối đa 250km. Loại radar này tại Việt Nam đã được nâng cấp lên tiêu chuẩn P-18M với khả năng kháng nhiễu tối hơn.

Radar đo độ cao PRV-16, loại radar này thường được triển khai xen kẻ với các loại radar 2 tham số để phối hợp cung cấp tham số thứ 3 về mục tiêu cho các hệ thống phòng không.
Radar đo độ cao PRV-16, loại radar này thường được triển khai xen kẽ với các loại radar 2 tham số để phối hợp cung cấp tham số thứ 3 về mục tiêu cho các hệ thống phòng không.
Read more…

Tàng hình ư? chuyện nhỏ

Thứ Năm, tháng 7 18, 2013 |
Ngày nay, tàng hình trước các hệ thống radar trinh sát đã trở thành một xu hướng mới trong thiết kế, chế tạo các hệ thống vũ khí. Từ tàu chiến, tiêm kích, máy bay ném bom.. các nhà thiết kế đều cố gắng trang bị cho chúng khả năng tàng hình trước sóng điện từ nhằm tạo sự bất ngờ về mặt chiến thuật.

Trong các vũ khí được thiết kế với khả năng tàng hình, máy bay tàng hình được đánh giá là vũ khí cực kỳ lợi hại bởi tốc độ di chuyển nhanh chóng, khả năng đánh đòn phủ đầu chớp nhoáng khiến đối phương không kịp trở tay. 

Máy bay tàng hình trước các biện pháp trinh sát điện từ chủ yếu nhờ vào thiết kế khí động học độc đáo giúp làm giảm tối đa diện tích phản xạ sóng radar (RCS). Ngoài ra máy bay còn được phủ một lớp sơn đặc biệt có khả năng hấp thu sóng điện từ cùng với các biện pháp che chắn hồng ngoại toàn diện.

Hệ thống anten đài radar cảnh giới tầm xa Vostok E.




Máy bay tàng hình thực sự là đối thủ "khó nhai" với bất kỳ một lực lượng phòng không quốc gia nào trên thế giới. Ảnh minh họa
Phần lớn sóng điện từ do các radar phát đi sẽ bị tán xạ trong không khí do thiết kế khi động học của máy bay hoặc bị hấp thụ bởi lớp sơn đặc biệt. Điều  đó khiến cho máy bay trở nên “tàng hình” trước các biện pháp trinh sát điện từ chủ động. Các radar chủ động gặp bất lợi lớn trong việc phát hiện các máy bay có khả năng tàng hình từ xa. 

Tuy nhiên, máy bay tàng hình không hẳn là không có điểm yếu, máy bay tàng hình bay trong đội hình phải trao đổi thông tin liên lạc với nhau, mở radar phát sóng để tìm kiếm mục tiêu tạo nên những bức xạ điện từ trong không khí. 

Đây chính là “nhược điểm lớn nhất” máy bay tàng hình, qua đó một số quốc gia đã phát triển thành công các hệ thống trinh sát điện từ (tìm kiếm, bắt tín hiệu điện từ phát ra từ máy bay tàng hình) chuyên trị loại vũ khí nguy hiểm này. 

Một trong những quốc gia đang đạt được nhiều thành tựu lớn trong lĩnh vực này là Ukraine với hệ thống trinh sát điện từ thụ động Kolchuga. 

Kolchuga được hợp tác phát triển giữa Cục thiết kế các thiết bị radar đặc biệt, Đại học Kỹ thuật Quốc gia Donetsk và Tập đoàn Xuất khẩu Vũ khí Nhà nước Ukrainae Ukrspetsexport. Quá trình phát triển hệ thống kéo dài trong 8 năm từ năm 1993-2000.

Theo dữ liệu Viện Nghiên cứu Hòa bình và Quốc tế Stockhom (SIPRI), năm 2009, Việt Nam đã ký hợp đồng với Ukraine mua 4 hệ thống trinh sát điện từ thụ động Kolchuga với tổng giá trị 54 triệu USD. Việc chuyển giao được hoàn tất trong năm 2012. 
Các thành phần trong hệ thống trinh sát điện từ thụ động Kolchuga chuyên bắt máy bay tàng hình.
Kolchuga được coi là một trong những hệ thống cảnh báo sớm đường không đặc biệt hiệu quả. Nó có thể phát hiện các loại máy bay tàng hình hiện có hoặc sẽ được trang bị trong tương lai thông qua sóng điện từ (thiết bị vô tuyến liên lạc, radar hoạt động sinh ra) phát từ máy bay. Đồng thời, nó cũng có thể phát hiện các loại máy bay tàng hình nhờ sóng điện từ phát ra từ động cơ. 

Mỗi hệ thống trinh sát điện từ Kolchuga gồm: 3 đài thu tín hiệu sóng điện từ có thể bố trí cách nhau 10km; 1 đài điều khiển xử lý tín hiệu trung tâm, có thể phát hiện và bám sát các loại phương tiện bay bằng việc giao hội sóng điện từ giữa 3 đài thu tín hiệu. 

Kolchuga có thể cùng lúc bám sát tín hiệu của 32 mục tiêu với đủ 3 tham số (cự ly, góc tà và phương vị). Các đài thu và trạm điều khiển trung tâm đều được đặt trên khung gầm xe vận tải bánh lốp Kraz 6x6. 

Theo tính toán, nếu hệ thống được đặt ở độ cao 100m (so với mặt đất) và mục tiêu bay ở độ cao 10km thì tầm phát hiện mục tiêu tới 450km, còn mục tiêu bay ở độ cao 20km thì cự ly phát hiện đạt 620km.
Với Kolchuga, phòng không Việt Nam có khả năng bắn hạ được máy bay tàng hình nếu phải đối đầu.
Như vậy, Kolchuga có thể hoạt động như một hệ thống cảnh báo sớm tầm xa hiệu quả. “Mắt thần” Kolchuga sẽ đảm đương nhiệm vụ cảnh giới phát hiện sớm các  mục tiêu xâm nhập bầu trời Việt Nam, cung cấp tham số về mục tiêu cho các hệ thống phòng không sẵn sàng tiêu diệt bất cứ mục tiêu nào.

Mặt khác do không chủ động phát sóng mà chỉ thu nhận tín hiệu điện từ phát ra từ máy bay đối phương nên nó “miễn nhiễm” với các loại tên lửa chống radar hoạt động theo nguyên lý bám theo cánh sóng radar.

Kolchuga cùng với Tamara và Vera của Cộng hòa Czech là các hệ thống trinh sát điện tử thụ động hiện đại nhất hiện nay. Các chuyên gia về vũ khí cho rằng Kolchuga có tính năng vượt trội hơn so với hệ thống 85V6-VEGA tương tự của Nga.

Theo trang Military Analysis (Nga), Việt Nam sẽ mua thêm 20 hệ thống radar cảnh giới tầm xa hiện đại Vostock E từ Belarus để tăng cường bảo vệ vùng trời, vùng biển. 

Hệ thống radar cảnh giới Vostok E do Cục thiết kế Agat/KB Radar (Belarus) nghiên cứu thiết kế thay thế cho đài radar cảnh giới P-18 có từ thời Liên Xô. 
Hệ thống Vostock E thường gồm: xe mang anten thu – phát; trạm điều khiển tự động từ xa và máy phát điện diesel. Trạm điều khiển tự động có thể triển khai cách xe anten và thiết bị tới 500m. Để bảo vệ radar khỏi các tên lửa tầm nhiệt, máy phát điện có thể đặt cách radar tới 50m. Toàn bộ hệ thống được đặt trên khung gầm xe tải chuyên dụng MZKT 65273-020 bánh lốp nên có khả năng cơ động rất cao. 

Theo thông tin từ KB Radar, Vostok E có thể phát hiện máy bay tàng hình giống như loại F-117A (Mỹ) ở cách 74km trong môi trường gây nhiễu điện tử. Trong môi trường không bị gây nhiễu, radar có thể phát hiện mục tiêu cách xa 350km và bám cùng lúc không dưới 120  mục tiêu. 

Ngay cả khi đối mặt với máy bay tàng hình F-22, Vostok E có thể phát hiện mục tiêu ở cự ly từ 57km và cung cấp thông tin mục tiêu cho hệ thống tên lửa S-300 tấn công tiêu diệt. 

 Hệ thống anten đài radar cảnh giới tầm xa Vostok E.
Trước đó, Việt Nam cũng đã nhập khẩu một vài đài Vostok E từ Belarus. Theo một số nguồn tin, sau khi nhập khẩu Vostock E từ Belarus, Việt Nam đã có một số cải tiến nhỏ nhằm phù hợp với điều kiện sử dụng tại nước ta. Những thông tin chi tiết việc cải tiến không được công bố nhưng được cho là có đặc tính vượt trội so với nguyên bản. 

Ngoài Vostok E, Việt Nam hiện nay cũng sở hữu một số hệ thống chuyên dùng bắt máy bay tàng hình, hệ thống trinh sát điện từ Kolchuga nhập khẩu từ Ukraine. 

Kolchuga được coi là một trong những hệ thống cảnh báo sớm đường không đặc biệt hiệu quả. Nó có thể phát hiện các loại máy bay tàng hình hiện có hoặc sẽ được trang bị trong tương lai thông qua sóng điện từ (thiết bị vô tuyến liên lạc, radar hoạt động sinh ra) phát từ máy bay. Đồng thời, nó cũng có thể phát hiện các loại máy bay tàng hình nhờ sóng điện từ phát ra từ động cơ. 
Read more…

Su35 và F35, ai là kẻ bại trận

Thứ Ba, tháng 7 16, 2013 |

Trong một cuộc không chiến, ngoài nghệ thuật bay, khoa học kỹ thuật và sự am hiểu thực tế của phi công thì khả năng tác chiến của những chiếc tiêm kích, sự tối ưu của hệ thống vũ trang, sự nhạy bén của hệ thống cảm biến phụ trợ, radar đều góp phần vào tỷ lệ đánh đổi chiến thắng LER (Loss Exchange Ratio). Tỷ lệ này được đánh giá trên khả năng tiêu diệt đối phương/khả năng bị hạ gục.


F-35 và Su-35: Mèo nào cắn mỉu nào?
F-35 và Su-35: Mèo nào cắn mỉu nào?

Trong một cuộc không chiến thực sự thì công việc của một chiếc tiêm kích là tiếp cận đối thủ, khóa mục tiêu trong tầm kiểm soát, tấn công nó thật nhanh và cuối cùng là thoát khỏi khu vực đó trước khi các đối thủ khác tấn công.
Trong trường hợp tấn công thất bại thì chúng cần phải nhanh chóng thay đổi kế hoạch tác chiến và lẩn trốn đối phương thật tốt để chờ đợi cơ hội tấn công khác. Quy trình này đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn và khả năng tác chiến tốt để xử lý mọi sự cố hoặc chống trả khi bị tấn công bất ngờ.
Chuỗi các quá trình này được gọi là “Kill Chain” bao gồm các tiến trình sau: phát hiện mục tiêu-định vị mục tiêu-ngắm bắn và khóa mục tiêu-nhấn nút khai hỏa tên lửa-tiêu diệt mục tiêu.
Trong bài này, chúng ta sẽ so sánh một số đặc điểm cấu tạo của Su-35 và F-35 để xem máy bay nào sẽ chiếm ưu thế hơn trong cuộc không chiến trên không. Các phiên bản so sánh trong bài là phiên bản cất cánh thông thường Su-35S và F-35A.
Theo nhận định ban đầu thì Su-35 có phần nhỉnh hơn F-35
Theo nhận định ban đầu thì Su-35 có phần nhỉnh hơn F-35

Hệ thống điện tử: với bất kỳ chiếc tiêm kích nào thì bán kính tác chiến, cự ly tác chiến phụ thuộc rất nhiều vào động cơ phản lực, hệ thống kiểm soát lực đẩy, hệ thống tác chiến đa chức năng JTIS/MIDs, hệ thống liên lạc qua sóng radio. Tuy nhiên, chúng lại phát đi các tín hiệu hồng ngoại hay tín hiệu nhiệt truyền đi khắp trong không gian nên có thể bị các cảm biến của đối phương bắt được, tạo điều kiện cho hệ thống tác chiến của nó vẽ được bản đồ tác chiến để đưa ra phương án tấn công.
Vì vậy, cả 2 chiếc Su-35 và F-35 đều có một hệ thống kiểm soát rất tốt công việc này là hệ thống EMCON, kiểm soát tất cả những phát xạ nhiệt và hồng ngoại, làm giảm đi các tín hiệu phát đi không mong muốn và giấu kín được chúng trước các cảm biến và radar đối phương.
Radar quét mảng pha chủ động X-band: bất kể chiếc tiêm kích nào hiện nay cũng được trang bị công nghệ radar X-band trong công tác định vị và phát hiện đối thủ. Cả 2 chiếc siêu tiêm kích Su-35 và F-35 cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, radar X-band của F-35 lại có tầm quét phía trước rất hẹp, góc và phương quét của nó chỉ bằng ½ so với Su-35. Điểm yếu chí tử này của F-35 là do nó được trang bị công nghệ tàng hình nên các thiết bị radar X-band và các hệ thống cảm biển đều được giấu kín bên trong nhằm đảm bảo công nghệ tàng hình phát huy tốt nhất. Tuy nhiên, điều này lại khiến F-35 không nắm được thế chủ động trước đối thủ.

APG-81 X-band của F-35 có tầm hoạt động thấp và góc quét hẹp hơn Irbis E X-band của Su-35S
APG-81 X-band của F-35 có tầm hoạt động thấp và góc quét hẹp hơn Irbis E X-band của Su-35S

Trong khi đó, Su-35 sử dụng hệ thống radar tích hợp đa nhiệm với góc quét rộng, bao phủ cả một phần sườn của máy bay, cự ly quét cũng cao hơn rất nhiều so với F-35.
Radar quét mảng pha chủ động AESA L-band: F-35 được trang bị công nghệ tàng hình bị động nên tất cả các hệ thống radar phụ trợ, thậm chí là vũ khí đều được giấu vào bên trong thân. Nhưng L-band là hệ thống radar thám sát và giám sát cự ly trung và chỉ có một vị trí tốt nhất cho nó là ở rìa cánh. F-35 không có L-band, nhưng không hẳn là nó yếu hơn so với Su-35 với L-band. Thông thường thì L-band chỉ hoạt động trong các tình huống tác chiến tầm gần dưới 20nm để thuận lợi hơn cho hệ thống tác chiến khuất tầm nhìn.
Hệ thống giám sát và theo dõi nguồn phát hồng ngoại và chuyển động nhiệt: Tương tự như T-50 và F-22, F-35 và Su-35 cũng được trang bị hệ thống giám sát và theo dõi nguồn phát đi hồng ngoại. Đây là một trong số những công nghệ tốt nhất để vạch mặt được các loại tiêm kích sử dụng công nghệ tàng hình bị động. Khi hoạt động thì các hệ thống liên tục phát xạ nhiệt hoặc hồng ngoại, dù được kiểm soát tốt bởi hệ thống giám sát EMCON thì 1 phần nhỏ trong chúng vẫn bị phán tán đi trong không gian. Su-35 sử dụng hệ thống OLS-35 tích hợp công nghệ giám sát chuyển động nhiệt và các tín hiệu hồng ngoại, tuy không hiện đại như hệ thống OLS-55 của T-50.
F-35 sử dụng Hệ thống AN/AAQ-37 DAS, đây là một hệ thống quang điện được tích hợp và sử dụng riêng cho hình dạng đặc biệt của F-35, khi hoạt động sẽ tạo ra một khối cầu với cự ly giám sát các chuyển động nhiệt và nguồn phát hồng ngoại trong cự ly. Đây là một trong số những hệ thống cảm biến thê hệ mới nhất DAS trong các cuộc thử nghiệm gần đây, có khả năng phát hiện và giám sát được các tên lửa đạn đạo ở cự ly xấp xỉ 705.714nm. Xét về khả năng đa nhiệm, hiển nhiên DAS hơn hẳn so với OLS-35, tuy nhiên nếu xét về khả năng tác chiến thì có rất nhiều điều quyết định. Thế nên ở tiêu chí này, cả 2 gần như tương đương nhau và còn phụ thuộc nhiều vào các điều kiện tác chiến và khả năng của phi công.
Tốc độ: Tốc độ là một trong những yếu tố đặc biệt quan trọng, với một tốc độ cao thì khả năng xoay chuyển và né tránh súng và tên lửa của đối phương sẽ tốt hơn nhiều.
Su-35 có tốc độ cao nhất là Mach 2.25 trên lý thuyết nhờ động cơ đẩy Saturn. Tuy nhiên, trên thực tế, do lực kéo và lực cản trong môi trường tác chiến thông thường nên tốc độ tối ta của nó chỉ đạt Mach 2.0. Trong khi đó, F-35 có tốc độ tối đa là Mach 1.65, thấp hơn so với Su-35.
Tầm hoạt động của tên lửa: không xét về các loại tên lửa điều khiển qua cơ chế thông thường như loại tìm kiếm nhiệt, chúng ta chỉ xét về loại tên lửa tác chiến khuất tầm nhìn. Trong tiêu chí này thì RVV-SD của Su-35 và AIM-120D của F-35 là 2 đôi thủ đáng gờm của nhau.
Một số chuyên gia nhận định rằng RVV-SD vượt trội hơn AIM-120 ở tốc độ. RVV-SD có tốc độ tối đa là Mach 4.5, trong khi tốc độ tối đa của AIM-120 là Mach 4, tuy nhiên, sự hơn thua giữa 2 loại tên lửa này vẫn gây rất nhiều tranh cãi. Các nhà phân tích của Mỹ cho rằng RVV-SD thua kém dòng tên lửa AIM-120 ở hệ thống điện tử do trình độ phát triển công nghệ điện tử của người Nga đã có một thời gian dài bị trì hoãn.
F-35A phóng tên lửa
F-35A phóng tên lửa

Trên thực tế, F-35 vẫn chưa đi vào hoạt động nhưng lại bộc lộ điểm yếu trước Su-35. Ngay cả các phi công Mỹ cũng thừa nhận rằng F-35 có khả năng chiến đấu toàn diện hơn F-22 nhờ công nghệ hiện đại nhưng nó cũng có những điểm hạn chế nhất định. Có rất nhiều nghi ngờ liệu khả năng tàng hình thật sự của F-35 có được như 'quảng cáo' hay không. Bên cạnh đó, những giới hạn nhất định về thiết kế (nhằm phục vụ khả năng tàng hình) có thể sẽ hạn chế khả năng tác chiến của F-35.
Tuy nhiên, cần nhớ rằng F-35 được thừa hưởng khả năng tuyệt vời của F-22 nên vẫn chưa thể khẳng định Su-35 sẽ hoàn toàn áp đảo F-35 trong một cuộc không chiến. F-35 vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện mình. Mỹ đã chi một khoản chi phí không hề nhỏ cho dự án này và người Mỹ thì nổi tiếng là thực dụng nên khó có thể có chuyện họ bỏ ra một đống tiền để phát triển một chiếc tiêm kích thế hệ 5 mà không có điểm gì vượt trội so với tiêm kích thế hệ 4 của đối thủ.
Read more…

Giờ phút sinh tử: S-300P có đủ khả năng giữ bầu trời Syria?

Thứ Hai, tháng 6 17, 2013 |
Việc thiết lập vùng cấp bay trên bầu trời Syria đang được các nước phương Tây cân nhắc, vậy hệ thống phòng không Damaas có đủ khả năng bảo vệ bầu trời của mình trước những thế trận liên hoàn của Mỹ và phương Tây?

Về hệ thống tên lửa phòng không S-300P (SAM S-300P), trong những năm 70 của thế kỷ trước nó đã được tạo ra như là một phần của hệ thống phòng không mạnh nhất của Liên Xô.
Nó được bố trí chủ yếu ở sâu trong lãnh thổ của Liên Xô, do vậy mà không có nguy cơ bị tấn công từ mặt đất, từ dưới lên là các tên lửa phòng không tầm trung và tầm ngắn, còn từ trên cao đã có các máy bay chiến đấu.
Nếu như đặt hệ thống SAM S-300P ra khỏi bối cảnh được bảo vệ và đặt nó trong điều kiện mà nó được sinh ra, bắt đầu cho thấy một số yếu điểm không phải dễ khắc phục.

Gót chân Asin của hệ thống vũ khí hoàn hảo

Giả sử Syria có đuợc SAM S-300P thì điểm yếu đầu tiên của SAM S-300P đó là nó quá cồng kềnh. Ngay cả trong cấu hình tối thiểu, một tiểu đoàn S-300P bao gồm 10 xe tải bốn trục, dài tới 12 m và có trọng lượng lên đến 40 tấn. Thế nhưng, một tiểu đoàn chưa phải là đơn vị chiến đấu đầy đủ.

Hạn chế thứ hai đó là có một “vùng chết” rộng xung quanh mỗi bệ phóng, trong vùng chết này các tên lửa sẽ không thể tiêu diệt mục tiêu.

Lỗ hổng thứ ba, đó là thời gian nạp đạn (đưa tên lửa vào các bệ phóng) phải mất ít nhất 1 giờ. Thậm chí, thời gian này mới là trên lý thuyết, để tiếp nạp đạn cần phải có xe tiếp đạn cho từng bệ phóng cũng như cơ số đạn dự phòng của đơn vị.

Từ những hạn chế của S-300P, chúng ta thấy rằng hệ thống này rất dễ bị tấn công từ mặt đất, còn trước hoặc trong quá trình triển khai thì có thể bị tấn công từ trên không. Thậm chí, ngay cả khi đã triển khai, mỗi tiểu đoàn S-300P và sở chỉ huy trung đoàn cần phải được bảo vệ bởi các hệ thống phòng không vác vai, pháo phòng không và tên lửa tầm thấp.
Phòng không Syria
Phòng không Syria khai hỏa . (Ảnh minh họa)
Ngoài ra, một trung đoàn được biên chế từ 1-2 tiểu đoàn, trong thực tế chúng dễ bị mất sức chiến đấu vì cơ số đạn tiêu thụ rất nhanh và thời gian nạp đạn cũng mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó, cần phải có nhiều hơn một tiểu đoàn để “san lấp” “vùng chết” của nhau.

Và cuối cùng, vì SAM S-300 quá cồng kềnh nên rất khó khăn trong công tác vận chuyển chúng, đặc biệt, bằng đường hàng không là hầu như không thể.
Về mặt lý thuyết, có thể dùng máy bay “thồ hàng” khổng lồ An-124, thế nhưng cũng chỉ “nhồi nhét” được 1-2 xe, mặt khác phương tiện này lại quá tốn kém và mất nhiều thời gian. Phương án vận chuyển đường biển, quá lâu nhưng nó rẻ hơn rất nhiều. Như vậy, hệ thống SAM S-300 rất rễ bị tổn thương ngay cả trong quá trình vận chuyển, bốc dỡ, hành quân đến vị trí dự định triển khai.

Từ tất cả những lý do trên, thành thật mà nói thì không dễ chuyển giao SAM S-300P cho Syria một cách “bí mật”. Vậy khi muốn chuyển giao, sẽ phải tiến hành một chiến dịch quân sự quy mô lớn có sự tham gia của các tàu chiến của Hải quân Nga, trong đó gồm cả các tàu tuần dương.

Trong một đất nước đang bị bao phủ bởi các cuộc nội chiến đẫm máu như Syria, thì S-300P khi hành quân và cả sau khi triển khai sẽ liên tục bị đe dọa bởi các cuộc tấn công từ mặt đất do các phiến quân nổi loạn đối lập hoặc bởi các nhóm biệt kích của Israel, NATO và Arab được cải trang thành các phiến quân.

Liên quan đến các cuộc tấn công từ trên không, nếu như S-300P đã được triển khai thành công thì đây chính là mục tiêu bắn phá của nó được thiết kế.
Trước mắt, tạm bỏ qua vấn đề đào tạo quân nhân để vận hành SAM S-300P (không ngoại trừ, nhân viên vận hành không phải là người Syria). Ngoài ra, việc “chiến đấu” với kẻ thù tiềm năng khác nhau cũng sẽ là rất khác nhau.

Mỹ thừa sức hạ gục S-300 nhưng không... thừa tiền

Như đã biết, trong cuộc chiến ở Lybia năm 2011, lực lượng Không quân Châu Âu thay phiên nhau “loại khỏi vòng chiến đấu” tất cả nguồn cung cấp đạn dược và nhiên liệu của đất nước này, tất nhiên, lực lượng phòng không của Gaddafi hầu như không hoạt động.

Còn ở Syria, họ có hệ thống phòng không khá hùng hậu từ S-75, S-125, S-200 đến các tên lửa Kub, Oka, Buk và Pantrir-1. Và chắc chắn kịch bản phòng không Lybia sẽ không thể lặp lại. Sự xuất hiện của SAM S-300P sẽ loại trừ khả năng can thiệp của Châu Âu và điều đó là không thể thay đổi.

Israel đang rất lúng túng, bởi vì lực lượng không quân của họ lần đầu tiên trong vòng 40 năm phải đương đầu với một vấn đề thực sự nghiêm trọng và khi mà họ không có những phi công giàu kinh nghiệm chiến đấu thực tế (các cuộc tấn công vào Palestine và Hezbollah không đáng tính).
Để tiêu diệt được SAM S-300, Israel cần phải tiến hành những hoạt động hết sức nghiêm túc cùng với việc phải sử dụng đáng kể một phần lực lượng không quân. Điều này sẽ dẫn đến một tổn thất lớn và khi các phi công bị bắn hạ và trở thành tù binh ở Syria, đây sẽ là một vấn đề nghiêm trọng đối với Nhà nước Do Thái.

Các luận điểm truyền thông ở Israel cho rằng, sẽ là rất nguy hiểm khi S-300P rơi vào tay của bọn khủng bố, điều này là phi lý.
Bởi vì, nếu chiếm được S-300P, những kẻ khủng bố chỉ có thể kích nổ chúng ngay tại vị trí, họ không đủ khả năng vận hành và sử dụng hệ thống này, đây là điều chắc chắn (việc bảo trì và vận hành không thể thực hiện nếu như không có sự tham gia của Nhà sản xuất).
Ngoài ra, những kẻ khủng bố luôn muốn giữ bí mật những hoạt động của mình. Còn làm S-300P “biến mất” là hoàn toàn không thể, bởi vì như đã nói ở trên, nó bao gồm cả một “tập hợp” các loại xe cộ máy móc. Ngoài ra, trong điều kiện chiến đấu, hệ thống tên lửa phòng không này “tự phơi” trận địa từ trên không chỉ bằng một vài thiết bị định vị mạnh.  

Nói cho cùng, chỉ có người Mỹ là có thể vô hiệu hóa hoàn toàn hệ thống S-300P mà không cần đến máy bay và phi công, chỉ cần dùng tên lửa hành trình Tomahaws.
Trong trường hợp này, bất kỳ tên lửa hành trình nào (ngoại trừ bay lệnh hướng) cũng hoàn thành nhiệm vụ, hoặc phá hủy bất kỳ thành phần nào của S-300P hoặc làm lạc hướng 1-2 tên lửa, góp phần vào việc làm suy giảm tiềm lực của hệ thống S-300P, bởi vì, đã nói ở trên việc nạp đạn lại cho hệ thống không thể thực hiện một cách nhanh chóng.

Ngoài ra, người Mỹ có số lượng Tomahawk hơn nhiều hệ thống SAM mà Syria nhận được, vì vậy, sớm hay muộn thì họ (Mỹ) cũng “hạ gục” được S-300P bằng cách đánh đơn giản.
Tuy nhiên, điều này sẽ “tiêu tốn” vài trăm tên lửa (tên lửa trong kho vũ khí của Mỹ có hạn, khoảng 3000-4000 quả) và số tiền tương ứng cũng lên đến hàng trăm triệu USD. Còn đối với Israel để đạt được mục đích này còn phải trả giá cao hơn rất nhiều.

Về pháp lý, không có nghĩa là Nga không nên cung cấp S-300P cho Syria. Ở mức tối thiểu, hợp đồng đã ký phải được thực hiện, đặc biệt là không có lý do gì để không thực hiện nó.

S-300P là cần thiết và ưu tiên, tất nhiên cũng phải tập trung vào những mối đe dọa tiềm tàng trước mắt. MiG-29, S-300P, Buk và cả Bastion là tốt, nhưng lực lượng Syria còn cần cả những khẩu Kalashnikov, súng chống tăng RPG-7, xe tăng T-72, pháo phản lực BM-21, trực thăng Mi-24 và tất cả đạn dược đi theo chúng.

Ở Nga, những vũ khí này còn rất nhiều trong kho quân dụng, vì vậy nó có thể được chuyển giao một cách miễn phí, coi như là “thanh lý”, và sẽ là tốt hơn nhiều khi chúng được chuyển giao cho quân đội của Assad dùng trong cuộc nội chiến này.

Nói chung, sự hiện diện của S-300P sẽ cải thiện đáng kể sự ổn định và vị thế của hệ thống phòng không Syria chống lại sự can thiệp của NATO và Israel, nhất là lúc một vùng cấm bay trên bầu trời Syria có thể được thiết lập.
Read more…

Iskander-M chọc thủng lá chắn tên lửa Mỹ

Thứ Sáu, tháng 6 14, 2013 |
Kienthuc.net.vn) - Tên lửa đạn đạo Iskander-M (Nga) trang bị hệ thống tác chiến điện tử được đánh giá là có khả năng chọc thủng lá chắn tên lửa Mỹ.

Izvestia dẫn nguồn tin Bộ Quốc phòng Nga cho hay, các tổ hợp tên lửa đạn đạo chiến thuật – chiến dịch Isakander-M trang bị hệ thống tác chiến điện tử sẽ gia nhập đơn vị chiến đấu vào mùa hè năm nay. Hệ thống tác chiến điện tử mới cho phép Iskander-M trở nên “vô hình” đối với các hệ thống phòng thủ tên lửa Patriot, Aegis (Mỹ) và Arrow của Izrael.  

“Các tổ hợp Iskander-M cải tiến sẽ được trang bị cho các lữ đoàn tên lửa của Quân khu miền Tây và miền Nam. Tôi không thể đưa ra số lượng cũng như tính năng của chúng”, đại diện Bộ Quốc phòng Nga nói. 

Theo Izvesita, tổ hợp tác chiến điện tử trên Iskander-M sẽ bảo vệ tên lửa trong giai đoạn cuối hành trình bay tới mục tiêu. Nó tạo ra nhiễu thụ động và chủ động chế áp các đài radar trinh sát và radar điều khiển hỏa lực hệ thống phòng không và phòng thủ chống tên lửa đối phương.

Tuy nhiên, không hẳn là Iskander-M có thể chế áp toàn bộ các hệ thống phòng không đối phương, mà chỉ tạo thời gian ngắn vừa đủ để tên lửa vượt qua “lá chắn” vào mục tiêu.

Sĩ quan cấp cao Quân đội Nga cho hay, tổ hợp không có khả năng chế áp toàn bộ các phương tiện phòng không và phòng thủ chống tên lửa. Tuy nhiên, thực tế cũng không cần như vậy, chỉ cần tạo ra trong một khoảng thời gian ngắn sự lộn xộn trong hoạt động của các hệ thống này sao cho tên lửa kịp vượt qua khoảng thời gian/quãng đường nguy hiểm. 

“Khả năng tính toán của các hệ thống phòng không và phòng thủ chống tên lửa hiện đại rất lớn, chúng nhanh chóng loại bỏ các mục tiêu giả và vượt qua màn nhiễu. Song bất luận thế nào cũng cần một khoảng thời gian đủ cho Iskander-M tiêu diệt mục tiêu”, sĩ quan này nói.


Bệ phóng di động tên lửa đạn đạo Iskander có thể chứa 2 quả đạn.
Chuyên gia quân sự độc lập về các xung đột vũ trang hiện đại Vyacheslav Tseluyko bình luận, tổ hợp tên lửa chiến dịch - chiến thuật Iskander-M với khả năng xuyên qua lưới lửa phòng không và phòng thủ chống tên lửa là lời đáp trả tương ứng cho khả năng triển khai lá chắn tên lửa của Mỹ ở châu Âu.

“Chính các radar và tên lửa đánh chặn của khu vực trận địa châu Âu có thể bị không quân và tên lửa chiến dịch - chiến thuật tiêu diệt. Vì vậy người Mỹ bảo vệ các mục tiêu của hệ thống phòng thủ chống tên lửa ở châu Âu bằng các hệ thống phòng thủ khu vực Patriot PAC-3. Để có thể tiêu diệt các mục tiêu này, Iskander-M được trang bị các tổ hợp tác chiến điện tử”, ông này nói.

Ông này lưu ý thêm là, không cần đến Iskander-M trong các cuộc xung đột khu vực hoặc trong cuộc chiến chống quân nổi dậy.

Chuyên gia này khẳng định: “Các tổ hợp loại Patriot và Arrow quá đắt và chỉ có trong trang bị của một số quốc gia giàu có. Còn chính Iskander-M thì lại cần một đối thủ có trình độ công nghệ cao và siêu hiện đại. Dùng các tên lửa này bắn vào các mục tiêu không được bảo vệ chẳng khác nào dùng kính hiển vi để đóng đinh vậy”. 


Isakander-M đạt tầm bắn tới 400km, bán kính lệch mục tiêu 5-7m. Ảnh minh họa
Tổ hợp tên lửa đạn đạo chiến thuật - chiến dịch Iskander-M do nhà sản xuất KB Mashynostroyeniya phát triển. Đạn tên lửa dùng cho tổ hợp có khả năng đạt tầm bắn tới 400km, độ chính xác rất cao với bán kính lệch mục tiêu chỉ là 5-7m. Nga cũng sẵn sàng xuất khẩu loại tên lửa này với biến thể Iskander-E giới hạn tầm bắn ở 280km, bán kính lệch mục tiêu 30-70m. 

Theo một số nguồn tin, Syria được xem là khách hàng tiềm năng của Iskander-E nhằm thay thế cho các tổ hợp tên lửa Scud đã lỗi thời. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện tại, thương vụ Iskander-E khó có khả năng xuất khẩu cho Syria.
Read more…

Tên lửa S-500 Nga có thực sự mạnh

Thứ Năm, tháng 5 23, 2013 |

Thứ trưởng Oleg Ostapenko cho biết, hệ thống S-500 được chế tạo mới mục đích đối phó với các cuộc tập kích từ trên không, bao gồm các loại máy bay có người lái và không người lái, tất cả tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo từ tầm ngắn cho đến tầm trung có tốc độ bay từ hạ âm cho đến siêu âm.

Trả lời câu hỏi, liệu S-500 có được bàn giao đúng thời hạn vào năm 2015 hay không? Ông Ostapenko không đưa ra thời điểm cụ thể mà chỉ đáp chung chung: “Tất cả mọi việc đều đang theo đúng tiến độ đề ra, chúng tôi hy vọng sẽ hoàn thành kế hoạch đúng kỳ hạn”. 

Hệ thống S500 

Trước đây, Nga đã công bố các hệ thống phòmg không/phòng thủ tên lửa sẽ được biên chế chính thức vào năm 2015. 

Đến trước năm 2020, quân đội Nga sẽ sản xuất đủ số lượng trang bị cho 10 tiểu đoàn để làm nòng cốt trong lực lượng phòng thủ không gian Nga.

Hệ thống tên lửa phòng không S-500 mà Nga đang chế tạo không chỉ sử dụng trong tác chiến phòng không mà nó còn là một “sát thủ” đáng gờm đối với các loại tên lửa đạn đạo. 

Với tính năng phòng không, phòng thủ tên lửa và phòng thủ không gian ưu việt của mình, S-500 sẽ trở thành hệ thống phòng không/phòng thủ tên lửa nòng cốt trong lực lượng phòng thủ không gian Nga. 

Khả năng phòng thủ tên lửa của S-500 được công ty Almaz-Antei bí mật nghiên cứu và thử nghiệm đã lâu, đến khi S-500 sắp được triển khai, Nga mới tiết lộ thông tin trên. S-500 có khả năng cùng lúc đánh chặn 10 quả tên lửa đạn đạo tầm trung có tầm bắn 3500 km, cự ly đánh chặn lí tưởng khoảng 600km. 

Nó còn có khả năng bắn hạ vệ tinh tầm thấp và tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) ở đoạn cuối, thậm chí là đoạn giữa hành trình. 
Tên lửa S-500 Nga 'độc cô cầu bại' trên chiến trường?
Hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD của Mỹ 
Riêng về độ cao và vận tốc đánh chặn thì S-500 đứng đầu thế giới. Nó có khả năng bắn hạ các mục tiêu bay cao tới 200km, với vận tốc 7km/s (tương đương 25.200km/h ≈ Mach23). 

S-500 có khả năng đánh chặn tất cả các loại tên lửa đạn đạo tầm trung, tầm ngắn cấp chiến dịch, chiến thuật, tên lửa hành trình siêu âm.

Bộ Quốc phòng Nga dự kiến sẽ biên chế 10 tiểu đoàn S-500. Mỗi hệ thống S-500 được cấu thành từ các đơn nguyên riêng rẽ: radar cảnh giới tầm xa, ra đa dẫn bắn, xe điều khiển trung tâm, các xe chở, nạp đạn… 

Các tổ hợp tên lửa phòng không tiên tiến này sẽ triển khai trên các xe di động, với các bệ phóng đặt trên xe vận tải hạng nặng bánh lốp 10x10.

Phương pháp tổ chức này dựa trên cơ sở chiến thuật “trang bị phân tán, hỏa lực tập trung”, trong tác chiến nếu một đơn nguyên nào bị thiệt hại thì sẽ nhanh chóng được bổ sung, thay thế, khôi phục ngay lập tức sức mạnh chiến đấu của cả tổ hợp. 
Tên lửa S-500 Nga 'độc cô cầu bại' trên chiến trường?
Hệ thống phòng thủ tên lửa Patriot-3 của Mỹ 
Hệ thống tên lửa phòng không S-500 có tính năng vượt trội so với “người tiền nhiệm” S-400 “Triumph”, không chỉ về chức năng phòng không và phòng thủ tên lửa, mà S-500 chỉ mất thời gian 3-4 giây để triển khai bắn tiếp mục tiêu khác chỉ trong khi S-400 mất 9-10 giây, hơn nữa S-500 nhỏ gọn và tính năng cơ động cao hơn các hệ thống S-300 và S-400 rất nhiều.

Hệ thống radar sục sạo và điều khiển hỏa lực của radar S-500 được xây dựng trên nòng cốt là radar mảng pha chủ động X-Band, có phạm vi phủ sóng vượt trội so với S-400, cự li sục sạo của nó đã đạt tới 800-1000km.

Với tính năng đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm cao, tầm xa siêu việt của mình, S-500 đã làm lu mờ cả 3 hệ thống tên lửa lưỡng dụng phòng không và phòng thủ tên lửa Patriot-3, hệ thống phòng thủ tên lửa mới nhất là THAAD và hệ thống phòng thủ tên lửa Aegis (bao gồm cả SM-3 và SM-2). 3 hệ thống này chính là cái ô 3 tầng, phòng thủ tên lửa tầm thấp, trung, cao cho Mỹ. 
Tên lửa S-500 Nga 'độc cô cầu bại' trên chiến trường?
Hệ thống radar phòng thủ tên lửa Voronezh-M của Nga 
Trong cả 3 hệ thống của Mỹ thì chỉ có hệ thống Aegis sử dụng tên lửa SM-3 có tính năng tiệm cận với S-500 nhất. Kiểu cơ bản của loại tên lửa thuộc hệ thống phòng thủ tên lửa Aegis SM-3 Block IIB là tên lửa đánh chặn SM-3 (còn gọi là RIM-161A) được chế tạo dựa trên nguyên mẫu của loại SM-2 Block IV, có tầm bắn trên 500km, độ cao đánh chặn đạt tối đa 160k, với vận tốc 9600km (gần Mach8) và chỉ phù hợp đánh chặn tên lửa đạn đạo.

Tên lửa SM-2 ngoài khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo, nó cũng có khả năng bắn hạ cả máy bay giống S-500 của Nga, nhưng chỉ bắn hạ được mục tiêu trong khoảng 200 km, bằng 1/3 của S-500. Còn tên lửa PAC-3 và THAAD là các hệ thống tầm trung và tầm thấp nên tính năng kém hơn nhiều (THAAD có tầm bắn 200km và độ cao đánh chặn 25km).

Xét về đơn lẻ từng hệ thống SM-2, PAC-3 và THAAD có tính năng lưỡng dụng tương tự S-500 nhưng cơ bản vẫn thiên về phòng thủ tên lửa, các tham số kỹ thuật thấp hơn rất nhiều, SM-3 có tầm bắn và độ cao tiệm cận S-50, nhưng chỉ đánh chặn tên lửa đạn đạo có quỹ đạo bay xác định, không có khả năng tấn công máy bay tàng hình, có quỹ đạo bay khó lường như S-500. 
Tên lửa S-500 Nga 'độc cô cầu bại' trên chiến trường?
Tên lửa Standard Missile-3 (SM-3) có giá 10 triệu USD/quả 
Như vậy, tính năng của S-500 đã tích hợp được tất cả những ưu điểm của PAC-3, Aegis và THAAD, cả 3 hệ thống của Mỹ chưa có tham số nào ngang bằng S-500. 

Điểm đặc biệt là, tuy chức năng phòng thủ tên lửa của S-500 mạnh như vậy, nhưng nó là hệ thống thiên về phòng không, vậy các hệ thống phòng thủ tên lửa chính hiệu của Nga là A-135 “Amur” và A-235 “Самолет-М” sẽ mạnh đến cỡ nào? Sự phối hợp của bộ 3 “lá chắn thần” này sẽ tạo thành một chiếc ô phòng thủ tên lửa cực kỳ vững chắc trên bầu trời Nga.

Với tính năng phòng không, phòng thủ tên lửa và phòng thủ không gian ưu việt của S-500, người Nga đã chứng tỏ tuy ngân sách quốc phòng hạn hẹp, không thể phát triển rầm rộ các loại vũ khí như Mỹ, nhưng khả năng tích hợp tính năng đa dụng hơn xa so với Mỹ, công nghệ đỉnh cao vẫn không hề thua kém, thậm chí nhiều mặt còn hơn Mỹ rất xa.  
Read more…