Bí ẩn bát trận đồ

Thứ Bảy, tháng 11 12, 2011 |

Bí ẩn bát trận đồ

- Người xưa thường gọi phương pháp bày binh bố trận là "bát trận". "Bát trận đồ" vốn không phải là sáng chế của riêng Võ Hầu Gia Cát Lượng. Đây là một loại trận pháp cổ, chỉ việc bố trí binh lực và xác định phương pháp tác chiến dựa trên địa hình và địch tình.
Thi hào Đỗ Phủ đời Đường đã tán tụng Khổng Minh Gia Cát Lượng rằng: "Công lớn trùm non nước; Thành danh Bát trận đồ. Sông tuôn, đá chẳng chuyển; Di hận chửa bình Ngô". Ngày nay, ở thị trấn Di Mâu, huyện Tân Đô và dưới thành Bạch Đế, huyện Phụng Tiết thuộc tỉnh Tứ Xuyên; Định Quân Sơn ở Miện Dương tỉnh Thiểm Tây; Tây Ap tỉnh Vân Nam đều còn lưu lại di tích Bát trận đồ của Khổng Minh.

Thần bí thạch trận

Theo "Tam Quốc diễn nghĩa" hồi thứ 84, do sai lầm của Thục Chúa Lưu Bị nóng lòng trả thù cho Quan Công, đại tướng Đông Ngô là Lục Tốn đã phá tan quân Thục, đốt cháy doanh trại liên tiếp 700 dặm và dẫn quân truy kích về hướng tây. Khi gần đến bến Ngư Phúc, Lục Tốn thấy phía trước có một luồng sát khí xông thẳng lên trời, bèn dừng ngựa bảo bộ tướng "Phía trước chắc có mai phục, không được khinh địch", rồi cho lui quân, bày thành trận thế, cho thám mã đi thám sát.

Quân về báo không có gì cả, Tốn không tin, xuống ngựa lên núi nhìn xuống, sát khí lại xông lên, cho quân đi do thám lần nữa vẫn là phía trước không người. Trời đã về chiều, sát khí càng nhiều, Lục Tốn do dự, sai người thân tín đi xem xét kỹ, kết quả là bên bờ sông có xếp 8, 9 đống đá lớn mà thôi, không một bóng người. Lục Tốn càng nghi, cho gọi thổ dân đến hỏi, thổ dân thưa: "Nơi này gọi là bến Ngư Phúc. Gia Cát Lượng khi vào Thục đã luyện binh ở đây, lấy đá xếp thành trận thế trên bến sông. Từ đó trở đi thường có khí tuôn như mây".

Lục Tốn nghe xong cưỡi ngựa lên sườn núi xem thạch trận, thấy đá xếp bốn phương tám hướng, đều có cổng, có cửa, bèn cười nói: "Đây là tà thuật làm mê hoặc người, có ích gì đâu", rồi xuống núi dẫn quân xông thẳng vào trong trận xem xét. Bộ tướng thưa "Trời đã tối, xin đô đốc trở về", "Tốn vừa muốn lui, hốt nhiên cuồng phong nổi dậy, trong chớp mắt cát chạy đá bay, mịt mù trời đất. Chỉ thấy quái thạch sừng sững, đan chéo như gươm; Đất dựng dọc ngang, trùng trùng như núi; Sóng dâng gào thét như tiếng trống dậy gươm khua. Lục Tốn kinh hoàng nói: "Ta trúng kế Gia Cát Lượng rồi!", muốn quay trở về, đã bít lối ra".


Nếu lúc ấy không có nhạc phụ của Gia Cát Lượng là Hoàng Thừa Ngạn chỉ đường dẫn lối ra khỏi trận thì chắc Lục Tốn cùng quân lính đã bị khốn. Hoàng Thừa Ngạn cho biết: "Con rể ta khi vào Thục có bày thạch trận ở đây, tên gọi là "Bát trận đồ", tới lui có 8 cửa án theo Bát môn độn giáp là Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai. Mỗi giờ mỗi khắc biến hóa vô cùng, có thể sánh với 10 vạn tinh binh. Trước khi ra đi có dặn lão phu là: "Sau này có đại tướng Đông Ngô bị mê trong trận thì đừng dẫn ra. Lão phu ở trên núi thấy tướng quân đi từ cửa Tử mà vào trận nên biết là không hiểu trận, chắc hẳn bị mê. Lão phu bình sinh hiếu thiện, không nỡ để tướng quân bị hãm ở đây, nên đưa ra theo cửa Sinh vậy". Tốn hỏi: "Ông có học được trận pháp này không?", Thừa Ngạn đáp: "Biến hóa vô cùng, không thể học được". Tốn kinh hoàng xuống ngựa bái tạ mà về, đến trại than rằng: "Khổng Minh đúng là "Rồng nằm"! Ta không bằng được!", rồi hạ lệnh rút quân".

Những gì viết ở trên khó tránh khỏi việc La Quán Trung thần thánh hóa tài năng của Khổng Minh. Tuy nhiên, nếu xét theo quan điểm khoa học ngày nay, rất có thể thạch trận được bố trí như mê cung, theo nguyên tắc của ma trận, hoặc theo cơ sở cảm xạ địa sinh học, sắp xếp phương vị theo nguyên lý cảm ứng điện từ, đồng thời dùng đá tạo sóng âm mạnh khiến người vào bên trong bị ảo giác do nhiễu loạn từ trường cao. Thạch trận này được chính sử "Tấn thư" quyển 9 xác nhận: "Khởi đầu Gia Cát Lượng tạo Bát trận đồ trên bến Ngư Phúc, xếp đá thành 8 hàng, mỗi hàng cách nhau 2 trượng (khoảng 8m)".

  Nguyên lý Bát trận đồ

Người xưa thường gọi phương pháp bày binh bố trận là "bát trận". "Bát trận đồ" vốn không phải là sáng chế của riêng Võ Hầu Gia Cát Lượng. Đây là một loại trận pháp cổ, chỉ việc bố trí binh lực và xác định phương pháp tác chiến dựa trên địa hình và địch tình.

Nhật Bản thời Chiến quốc cũng có Bát trận của Võ Điền Tín Huyền, gồm Ngư Lân, Hạc Dực, Nhạn Hành, Loan Nguyệt, Phong Thỉ, Hàm Ach, Trường Xà, Phương Viên. Bát trận đồ là tâm pháp sở đắc về binh pháp của Gia Cát Lượng, đúng như "Tam Quốc chí Thục thư" viết: "Lượng giỏi ở suy nghĩ khéo lạ, làm ra nỏ liên châu, trâu ngựa bằng gỗ, suy diễn trận pháp làm thành Bát trận đồ".


Bày quân theo Bát trận đồ
Bát trận đồ căn cứ theo bát quái (8 quẻ) Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khảm, Đoài mà bày thành 8 trận chính: Thiên phúc, Địa tải, Long phi, Xà bàn, Hổ dực, Điểu tường, Phong tán, Vân thùy, được án theo 8 cửa. Trong đó cửa Sinh, Cảnh, Khai là cửa sinh, còn Hưu, Thương, Đỗ, Tử, Kinh là cửa tử. Nếu không hiểu trận pháp mà đi lầm vào cửa tử thì không thể nào ra được.

Trong trận lấy 5 người làm 1 ngũ (ngũ hành), 55 người thành 1 đội (số sinh thành của trời đất, trời 25, đất 30), 8 đội thành 1 trận (440 người), 8 trận thành 1 bộ (3.520 người) là trận tiểu thành. 8 bộ thành 1 tướng (28.160 người) là trận trung thành. 8 tướng là 1 quân (225.280 người) là trận đại thành. Từ bát quái biến ra trùng quái (64 quẻ), lấy 8 làm cơ sở mà nhân lên, càng đông người thì trận càng lợi hại, chính như Hàn Tín nói "Đa đa ích thiện" càng nhiều càng tốt.

Bát trận gồm 4 loại binh chủng: Quân kỵ, quân bộ, quân cung nỏ và quân chiến xa phối hợp tác chiến, phân chia thành dọc ngang 64 đơn vị chiến đấu, hợp thành một đại phương trận (trận vuông lớn), trong đại phương trận lại phân thành nhiều tiểu phương trận tựa lưng vào nhau tác chiến, đại trận bọc tiểu trận, đại doanh bọc tiểu doanh. Khi chiến đấu, quân chiến xa sẽ dùng xe, chướng ngại vật ngăn cản sự xung kích của kỵ binh đối phương, tiếp đó quân cung nỏ sẽ bắn tên, cuối cùng là bộ binh, kỵ binh tràn lên cận chiến. Sau trận luôn có 24 đội kỵ binh (ứng với 24 tiết khí), có thể cơ động phối hợp tác chiến với các tiểu trận trong đại trận, tiến hành đánh đột kích hoặc bao vây. Khi quân địch vào trong trận, các tiểu trận sẽ phát huy công năng xé lẻ binh lực địch, biến hóa tùy theo thế công của địch, các đội đều có thể tiếp ứng lẫn nhau, tuy động mà không loạn, từ trận vuông biến thành trận tròn bọc lấy quân địch, đầu đuôi tiếp cứu nhau như rắn Thường Sơn hai đầu, nên trận pháp này còn gọi là "Thường Sơn xà trận".
                                                                                                                                                 
Read more…

Ai sẽ làm chủ bầu trời?

Thứ Sáu, tháng 11 11, 2011 |




 - Những “đối chọi” giữa phương Đông và phương Tây trong công nghệ hàng không cũng như về tương lai của ngành công nghiệp quốc phòng thế giới là vấn đề được nhiều người quan tâm. Dưới đây, xin giới thiệu bài phỏng vấn của báo điện tử Lenta.ru đối với Tiến sĩ Carlo Kopp - một chuyên gia phân tích hàng đầu của Trung tâm Nghiên cứu khoa học Air Power Australia - về vấn đề này.

Xin được giới thiệu thêm, tiến sĩ Carlo Kopp nổi tiếng nhờ những nghiên cứu về hàng không chiến đấu và vũ khí phòng không do Nga và phương Tây sản xuất. Ngoài ra, ông là người chỉ trích mạnh mẽ dự án máy bay tương lai F-35 của Mỹ và ủng hộ tích cực dự án F-22.

Lenta.ru: Thưa tiến sĩ Carlo Kopp, một trong những nghiên cứu gần đây nhất của mình, ông đã bày tỏ ý kiến rằng máy bay chiến đấu F-15, F-16 và F/A-18 cũng như F-35 của Mỹ không có cơ hội “sống sót” trong cuộc chiến với những hệ thống phòng không của Nga vì Nga đã cải tiến thành công các hệ thống này bằng việc sử dụng kinh nghiệm trong các cuộc xung đột quân sự với NATO tại Iraq năm 1991 và Serbia năm 1999. Ông có thể cho biết những thành tựu nào mà các nhà sản xuất Nga đạt được, theo ông, là quan trọng nhất và các nước thành viên NATO cần phải sử dụng những biện pháp nào để đối phó với hệ thống phòng không của Nga?

Tiến sĩ Carlo Kopp: Sau khi “Chiến tranh Lạnh” kết thúc, công nghệ sử dụng trong ngành công nghiệp Nga để chế tạo ra những hệ thống điện tử tầm xa, tên lửa tầm xa, bệ phóng tự hành, đã được cải tiến đáng kể.

Và trong thời kỳ Liên Xô cũng đã xuất hiện không ít những mẫu trang thiết  bị phòng không cải tiến và đáng chú ý như thiết bị vô tuyến định vị dẫn đường 5H63 dành cho hệ thống phòng không S-300P, thiết bị vô tuyến định vị tìm mục tiêu từ xa 5H64/64H6. Nhưng khi đó, phương Tây đã sở hữu ưu thế vượt trội nhờ vào hàng loạt những công nghệ mới. Với sự hỗ trợ của chúng, những máy tính tiên tiến, bộ xử lý máy tính cao tần, tên lửa chống radar và tất nhiên là công nghệ tàng hình…đã ra đời.

Điều làm chúng tôi lo lắng đó là tên lửa điều khiển tầm xa của Liên Xô. Chúng đã tiêu diệt rất nhiều máy bay tại Việt Nam và sau này là máy bay của Israel được phương Tây bán cho. Vì thế, hàng tỷ đôla đã được đầu tư vào việc chế tạo công nghệ tàng hình và các phương tiện chiến đấu điện tử hiện đại có khả năng chống lại hệ thống phòng không của Nga khi đó. Và hiệu quả đầu tư đã không uổng phí. Điều này được chứng minh bởi sự thất bại của hệ thống phòng không Iraq năm 1991 do Liên bang Xô Viết thiết lập trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh.

Tổ hợp tên lửa phòng không S-300. Ảnh: Pvo.guns.ru

Từ đầu năm 1991, không ít những kỹ sư-các nhà thiết kế tài năng của Nga đã có thể làm quen với nhiều công nghệ mà họ không có cơ hội tiếp xúc vào thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”. Những hạn chế trước đó do các quốc gia phương Tây áp dụng đã được dỡ bỏ. Hiện nay, những hệ thống vũ khí của Nga không khác biệt quá nhiều so với những phương tiện tương tự của phương Tây.

Ví dụ, nhiều chuyên gia phân tích phương Tây đã bị sốc khi công ty Agat của Nga thông báo rằng họ đang sử dụng bộ vi xử lý máy tính của công ty Texas Instruments (Mỹ) trong phần đầu radar chủ động mới nhất của tên lửa điều khiển tầm xa tự hành và tên lửa không – đối – không. Các nhà sản xuất tên lửa phương Tây cũng đã sử dụng những bộ vi xử lý tương tự. Một yếu tố quan trọng là các nhà chế tạo Nga đã có khả năng sử dụng nhiều công nghệ hiện đại mà các bậc tiền bối trong thời kỳ Liên Xô không có cơ hội tiếp cận.

Sự thất bại của Lực lượng Phòng không Iraq năm 1991 đã khiến nhiều nước ủng hộ sử dụng tên lửa điều khiển phòng không vô cùng bối rối. Các chuyên gia Nga đã nghiên cứu rất cẩn thận hoạt động tác chiến hiệu quả của quân đội Mỹ và có thể thấy được cả điểm mạnh và điểm yếu của chiến lược kỹ thuật Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thật khó nói chính xác xem các bộ phận nào thuộc hệ thống phòng không Nga là ưu việt hơn cả vì đa số chúng đều được sản xuất thành tổ hợp.

Những tên lửa tầm xa 48H6E2/E3 và 40H6 rất nguy hiểm vì chúng có khả năng tiêu diệt hệ thống vô tuyến định vị trên không của chúng tôi, hệ thống do thám điện tử và chỉ thị mục tiêu cũng như những máy bay được trang bị thiết bị điện tử gây nhiễu.

Những tổ hợp tên lửa phòng không tự hành mới có khả năng di chuyển tốt như Favorit, Triumf và Antey-2500, hệ thống bảo vệ thiết bị vô tuyến định vị chống lại tên lửa chống radar và bom điều khiển trong đó có tổ hợp tên lửa Tor-M2E và Pansyr-C1 cũng như tạo ra sự gây nhiễu nghiêm trọng đối với đối phương để trấn áp các phương tiện của hệ thống phòng không.

Đồng thời, thành công của Mỹ và các đồng minh năm 1991 và 1999 đạt được phụ thuộc rất nhiều vào tính dễ bị tổn thương của hệ thống phòng không cố định của Liên Xô. Ví dụ như hệ thống S-75 và S-125 dễ dàng bị tìm thấy và tiêu diệt nhờ vào sự trợ giúp của tên lửa chống radar và bom điều khiển.

Tổ hợp tên lửa S-75. Ảnh: Pvo.guns.ru

Những radar tần số thấp hiện đại của Nga và hệ thống tìm kiếm thụ động cũng có khả năng thực hiện vai trò của mình. Mặc dù chúng không hiệu quả khi chống lại F-22 và máy bay ném bom B-2 nhưng chúng hoàn toàn có khả năng tìm kiếm máy bay ít tàng hình hơn như F-35 và máy bay cũ hơn.

Công nghệ tàng hình mới nhất của Mỹ mới nhất được thể hiện trong cấu trúc của F-22 và B-2. 2 loại máy bay này có khả năng đối phó thành công với radar và tên lửa Nga, còn những mẫu máy bay cũ hơn của Mỹ và châu Âu lại “già nua” so với những hệ thống loại Triumf và Favorit của Nga cũng như những radar mới và các phương tiện bảo vệ được tổ hợp phòng không trên sử dụng.

Và điều đó đang thay đổi thực sự tình hình trong phạm vi chiến lược toàn cầu.

Lenta.ru: Hệ thống phòng không S-400 Triumf, theo thông tin của nhà chế tạo, vượt trội hơn hẳn so với S-300 cũ. Bên cạnh đó, việc tái trang bị cho quân đội Nga bằng S-400 giờ diễn ra rất chậm và hiện Triumf chỉ được biên chế ở một vài khu vực của nước Nga khi mà S-300 vẫn được sử dụng phổ biển hơn. Vậy theo ông, Nga sẽ đẩy nhanh việc cung cấp S-400 cho quân đội hay thay vào đó Nga sẽ tập trung hơn vào những vũ khí hoàn thiện hơn để đáp ứng yêu cầu của chiến tranh tương lai? Liệu những phương tiện hiện đại này có được xuất khẩu hay cung cấp cho các đồng minh của Nga, như Belarus chẳng hạn, hay không?

Tiến sĩ Kopp: Xét từ góc độ của một chuyên gia phân tích quân sự phương Tây, tôi có thể nói rằng Nga sản xuất càng ít hệ thống Triumf càng tốt còn việc xuất khẩu đối với các bạn là vấn đề mang tính chiến lược.

Việc bán S-400 cho Belarus có thể rất hấp dẫn xét về góc độ thương mại. Nhưng điều này sẽ không cải thiện được mối quan hệ của Moscow với Liên minh châu Âu (EU) vì S-400 được biên chế gần biên giới phương Tây sẽ kiểm soát được một nửa lãnh thổ Ba Lan và không cho phép không quân Ba Lan yên tâm sử dụng không phận riêng của mình. Những hành động chiến lược như thế có thể bị coi là khiêu khích và gây bất ổn.

Việc xuất khẩu S-400 có lợi hay không sẽ phụ thuộc vào những hậu quả cụ thể. Ví dụ, việc bán S-300 cho Cyprus đã tạo ra sự bất ổn về chính trị trong khu vực Aegean. Có thể “chờ đợi” hậu quả tương tự tại bất kỳ khu vực nào khác nơi mà Nga xuất khẩu S-400. Đây là vũ khí mạnh và có ý nghĩa chiến lược, có khả năng vô hiệu hóa bất kỳ lực lượng không quân nào không có máy bay tiêm kích F-22. Và thử hỏi, có bao nhiêu quốc gia sở hữu loại máy bay này?

Lenta.ru: Ông là một trong những người nhiệt liệt ủng hộ quan điểm cho rằng máy bay tiêm kích đa chức năng F-22 của Mỹ vượt xa máy bay F-35 Joint Strike Fighter tương lai mặc dù 2 máy bay này đều sử dụng công nghệ thế hệ 5. Ông cũng cho rằng Mỹ nên tiếp tục sản xuất F-22 cũng như cho phép xuất khẩu máy bay này cho các đồng minh thân cận trong đó có cả Australia. Theo ông, liệu khả năng xuất khẩu máy bay này trong tương lai có xảy ra và điều đó có thể ảnh hưởng đến thế cân bằng lực lượng trên thế giới hay không?

Máy bay tiêm kích F-22. (Ảnh: Công ty Lockheed Martin)

Tiến sĩ Kopp: Thứ nhất, F-35 Joint Strike Fighter – không hoàn toàn là máy bay tiêm kích thế hệ 5 vì nó chưa đạt đến tiêu chuẩn đó khi xét về các chỉ số như vận tốc siêu thanh, công nghệ tàng hình và tính cơ động. Nó giống máy bay tiêm kích thế hệ 3 được chế tạo nhờ sử dụng một vài chi tiết của công nghệ thế hệ 5. Nó được chế tạo để tác chiến chống tăng trên chiến trường và không thể thay thế được máy bay hoàn thiện F-22. Khẳng định F-35 có thể đối phó hiệu quả với S-300PMU2 và S-400 của Nga chỉ dành cho những người không nghiên cứu khả năng của tổ hợp phòng không Nga một cách cẩn thận mà thôi.

Cân bằng lực lượng trong thế giới hiện nay đang thay đổi và thay đổi theo hướng bất lợi cho phương Tây vì nhiều quốc gia phương Tây hiện chưa khôi phục toàn bộ hàng không chiến đấu của mình vốn được hình thành từ thập niên 80 của thế kỷ trước.

Trung Quốc có kế hoạch trang bị cho quân đội hơn 500 chiếc máy bay tiêm kích Flanker (Su-27 và Su-30). Số lượng này có thể so sánh với toàn bộ số máy bay tiêm kích F-15 của Mỹ trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”. Nhưng F-15 được chế tạo vào năm 1985 và chúng không thể cạnh tranh được với máy bay Flanker ra đời năm 2008. Trong khi đó, Australia và Nhật Bản cũng đang trong tình trạng rất khó khăn vì Nhật Bản đang trang bị F-15CJ xuất xưởng năm 1983 còn Australia – trang bị F/A-18 đã cũ và có kế hoạch mua F-35.

Thực tế vấn đề lớn không phải nằm ở chỗ Mỹ có cho phép xuất khẩu F-22 sang Australia, Israel hay Nhật Bản hay không. Đánh giá những rủi ro mà Mỹ gặp phải trong 10 năm trước chỉ ra rằng niềm tin của Mỹ có thể đặt vào Australia: Canberra sẽ không “sao chép” hoặc xuất khẩu những công nghệ bí mật. Australia, Israel và Nhật Bản càng lo lắng hơn nhiều khi Lầu Năm Góc muốn đẩy mạnh F-35 ra thị trường chứ không phải F-22 còn Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates yêu cầu ngừng sản xuất F-22 “Chim ăn thịt”.


Máy bay tiêm kích F-35. (Ảnh: Công ty Lockheed Martin)

Tuy nhiên, nhiều thượng nghị sĩ Mỹ hiện nay kêu gọi cho phép xuất khẩu F-22 và khả năng Australia, Israel và Nhật Bản sẽ nhận được những máy bay này là rất lớn. Rất có thể ông Gates sẽ năn nỉ đóng cửa chương trình tuy nhiên mức độ ủng hộ xuất khẩu F-22 tại Quốc hội Mỹ vẫn rất cao.

Lenta.ru: Trên thực tế hiện nay chỉ có Nga và Trung Quốc chế tạo được máy bay chiến đấu thế hệ 5 riêng và về mặt lý thuyết chúng có thể cạnh tranh với máy bay F-22 và F-35 của Mỹ. Cho đến nay, cả 2 dự án này của Moscow và Trung Quốc vẫn còn rất nhiều bí mật, tuy nhiên, ông có thể dự đoán về kết quả của 2 dự án? Và nếu thành công, một trong hai nước có thể sánh ngang với tiềm năng của Mỹ và các nước NATO hay không?

Tiến sĩ Kopp:
Tôi có cảm giác rằng việc dự đoán kết quả thực hiện khi chưa được giới thiệu luôn luôn là điều nguy hiểm.

Nga hiện nắm đa số công nghệ cần thiết để chế tạo máy bay tiêm kích “đẳng cấp” như F-22 nhưng Nga chưa có nhiều kinh nghiệm sản xuất máy bay tàng hình. Khi PAK FA được “trình làng” thì chúng ta có thể đánh giá được việc các kỹ sư của Sukhoi khắc phục những khó khăn này như thế nào và được bao nhiêu? Thậm chí nếu xét về khí động lực học, PAK FA sẽ đạt mức F-22 hoặc vượt qua F-22 thì chiến thắng trong các trận chiến dù sao cũng sẽ phụ thuộc vào mức độ công nghệ tàng hình của máy bay.

J-XX của Trung Quốc là gì? Hiện nay, Trung Quốc không giấu giếm tham vọng chế tạo loại máy bay có thể mang tên J-XX này nhưng bản thân máy bay này còn “chưa được định hình rõ” thành thử bất kỳ kết luận nào đối với khả năng của máy bay cũng sẽ hoàn toàn là “suy diễn”.

Lenta.ru: Trong khi Nga và Mỹ trên thực tế đang phân chia thị trường máy bay chiến đấu thì hàng loạt nước khác cũng đang phát triển và tiến tới sở hữu máy bay tiêm kích đa chức năng của riêng mình. Ví dụ như Rafale của Pháp, Typhoon của châu Âu, Gripen của Thụy Điển. Liệu các nhà sản xuất của Nga như công ty MiG và Sukhoi có duy trì được khả năng cạnh tranh trên thị trường và theo ông, hiện nay máy bay nào của Nga được coi là tốt nhất và tại sao?

Tiến sĩ Kopp:
Thắng lợi trong tác chiến trên không phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Những máy bay có được ưu thế vượt trội là máy bay được trang bị radar công suất lớn, mang nhiều tên lửa, vận tốc bay cao hơn và cơ động hơn, được tiếp nhiều nhiên liệu và được bảo vệ bởi công nghệ tàng hình hoàn thiện hơn. Không có một chiến đấu cơ nào của châu Âu có được ưu thế vượt trội hơn hẳn so với Su-35-1 hoặc MiG-35 nếu tính theo những chỉ số trên. Những thiết kế cơ bản của máy bay châu Âu xuất hiện vào thập niên 80 khi Liên Xô đã hoàn thành nghiên cứu máy bay Su-27S.

Máy bay Su-35 của Nga. (Ảnh: Công ty Sukhoi)

Máy bay tiêm kích Eurofighter và Gripen NG sẽ được trang bị tên lửa Meteor với động cơ phản lực dòng khí thẳng. Thật khó nói máy bay nào của châu Âu có khả năng cạnh tranh tốt hơn cả vì chưa có máy bay nào có thể đạt được thành công lớn trên thị trường máy bay chiến đấu thế giới. Xét tổng thể, các quốc gia phương Tây không bận tâm đến việc đầu tư số tiền đáng kể vào việc thay thế toàn bộ số máy bay tiêm kích từ thời “Chiến tranh Lạnh”.

Nói về máy bay Nga thì Su-35-1 là máy bay có tiềm năng xuất khẩu lớn nhất so với MiG-35 vì đa số khách hàng tiềm năng đều nằm tại châu Á. Do khoảng cách di chuyển lớn nên các quốc gia này cần máy bay lớn có bán kính hoạt động lớn.

PAK FA nếu thiết kế thành công thì có thể đạt được thành công lớn trên thị trường thế giới trong khi các quốc gia phương Tây nếu không thể mua F-22 thì chắc chắn sẽ gặp khó khăn trong chiến lược.

Lenta.ru: Ông đã phân tích rất cẩn thận thành tựu của ngành công nghiệp quốc phòng Nga và có lẽ ông có thể đánh giá được tình hình hiện nay. Vậy theo ông, ưu và nhược điểm của ngành công nghiệp quân sự Nga nằm ở đâu? Và liệu Nga có thể độc lập với các nước liên bang Xô Viết trong kế hoạch này hay không khi mà các doanh nghiệp của các quốc gia này đã từng gắn bó chặt chẽ với Nga trong thời kỳ Liên Xô?

Tiến sĩ Kopp: Vấn đề nêu ra quả là rất đúng. Dưới thời Xô Viết, ngành công nghiệp quân sự không gặp khó khăn về tài chính từ phía Liên Xô và các nước tham gia thỏa thuận Warsaw để sản xuất vũ khí giết người hàng loạt. Nhưng ngành công nghiệp quân sự Nga mất đi sự tiếp cận với những thành tựu gần đây nhất của công nghệ máy tính trên thị trường thế giới. Hiện nay, tình hình này dường như có sự đảo chiều. Nga đầu tư không đủ vào ngành công nghiệp quân sự, còn đa số các nước tham gia thỏa thuận Warsaw đều đã là thành viên của NATO và không mua vũ khí Nga. Trong khi đó, hiện nay tổ hợp công nghiệp quân sự của các bạn đã được tiếp cận không hạn chế đối với máy tính hiện đại, các chương trình đảm bảo, thiết bị điện tử cao tần và chuột quang trên thị trường thế giới.

Tôi đã nghiên cứu công nghệ quân sự Liên Xô và Nga trong vòng 30 năm qua và trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”. Từ năm 1991, tôi đã quan sát sự bùng nổ sáng tạo và mới mẻ thực sự. Ngành công nghiệp quân sự Nga tiếp thu những công nghệ máy tính phức tạp của phương Tây rất nhanh và sử dụng chúng trong những nghiên cứu của mình với tốc độ đáng kinh ngạc. Cho đến nay Nga đang nắm giữ chuyên môn cao trong lĩnh vực giải pháp công nghệ và khoa học quân sự.

Khi viết về những hệ thống vô tuyến điện và vũ khí tên lửa thì các tạp chí chuyên ngành hiện nay của Nga đã làm tốt hơn nhiều so với các tạp chí chuyên ngành tương tự bằng tiếng Anh trước đó. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh thì điều đó hoàn toàn ngược lại. Ngành công nghiệp quốc phòng phương Tây bị chảy máu chất xám – một phần kỹ sư lành nghề và các nhà khoa học đã nghiên cứu máy tính tại Thung lũng Silicon hoặc nghiên cứu tài chính tại phố Wall vì tiền thù lao trả cho họ cao hơn trong khi rủi ro mất việc ít hơn so với làm việc trong ngành quân sự.

Có người cho rằng, tổ hợp công nghiệp quân sự Nga hiện nay đối mặt với tình trạng các kỹ sư tài năng và các nhà khoa học rời đất nước và sang làm việc tại thung lũng Silicon hoặc phố Wall. Tuy nhiên, nếu một kỹ sư tài năng trẻ hoặc một nhà khoa học muốn tìm công việc theo đúng chuyên ngành tại Nga thì sự lựa chọn thực sự là không có – họ có thể làm việc tại viện nghiên cứu khoa học quân sự hoặc nhà máy quốc phòng.

So với thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, số lượng tiến sĩ khoa học trong lĩnh vực vật lý, kỹ thuật và máy vi tính, toán học ở phương Tây đã giảm xuống. Rất khó giữ những sinh viên tốt nghiệp tài năng ở lại các phòng thí nghiệm của trường đại học hoặc trong ngành công nghiệp quốc phòng. Hiện nay, những thanh niên tài năng thích nghiên cứu ở trường đại học y, luật hoặc cơ sở kinh doanh chứ không thích những môn tự nhiên hoặc kỹ thuật.

Ngành công nghiệp Nga khác với phương Tây ở chỗ họ không sợ thử nghiệm ý tưởng và giải pháp mới vì ở phương Tây thí nghiệm bị hạn chế bởi sự cần thiết về chi phí từ lợi nhuận của công ty.

Sự độc lập của ngành công nghiệp quân sự Nga với các nước cộng hòa thuộc liên bang Xô Viết cũng là một vấn đề rất thú vị và được quan tâm. Sự gián đoạn mối quan hệ với Ukraine trong năm 2004-05 cho thấy dịch vụ kém của ngành công nghiệp quân sự của các bạn vì nhiều cục thiết kế và các công ty quan trọng vẫn nằm ở Ukraine. Ngoài ra, nhiều công ty của Ukraine cũng bị phá sản hoặc đã bắt đầu cạnh tranh với các công ty Nga bằng việc bán các thiết bị dự phòng, tiến hành sửa chữa và hiện đại hóa vũ khí sản xuất từ thời Liên Xô. Mối quan hệ giữa Nga và Ukraine đã trở nên phức tạp từ thời kỳ Sa hoàng và hiện nay Nga đã phải trả giá về điều này trong lợi ích chính trị.

Hơn nữa, rất nhiều quốc gia phương Tây hiện nay có thể tuyên bố rằng ngành công nghiệp của họ hoàn toàn độc lập với thị trường thế giới. Mỹ đang cố gắng duy trì sự độc lập nhưng thậm chí hiện nay họ cũng phải mua một phần sản phẩm quốc phòng ở nước ngoài ví dụ như chip máy tính hoặc nguyên liệu máy tính của Nhật Bản hoặc Trung Quốc. Trong điều kiện toàn cầu hóa sẽ là quá khó khăn nếu chỉ dựa vào sức mạnh nội lực của riêng mình.

Lenta.ru: Vâng. Xin cảm ơn tiến sĩ vì buổi trò chuyện này!
Theo Lenta

Read more…

Khám phá đội tàu sân bay của hải quân Mỹ

Thứ Sáu, tháng 11 11, 2011 |

 Hải quân Mỹ hiện có 11 chiếc tàu sân bay với 2 lớp khác nhau.

 
Đó là 1 tàu sân bay hạt nhân lớp Enterprise là Enterprise CVN 65; 10 tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz: Nimitz CVN68, Eisenhower CVN69, Carl Vinson CVN70, Roosevelt CVN71, Lincoln CVN72, Washington CVN73, Stennis CVN73, Truman CVN75, Ronald Reagan CVN76, Bush CVN77.

Tàu sân bay USS Enterprise CVN65

USS Enterprise CVN65 là tàu thứ 8 sử dụng tên Enterprise trong lịch sử thế giới, và là tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên trên thế giới. Enterprise khởi công ngày 4/2/1958, hạ thủy năm 1960, chính thức gia nhập hải quân Mỹ ngày 25/11/1961.
 
Năm 1964, Enterprise đã có cuộc hành trình vòng quanh thế giới chưa từng có, không cần tiếp tế trong cả cuộc hành trình, tổng thời gian 64 ngày, cuộc hành trình dài tới trên 30.000 hải lý, đã phản ánh đầy đủ khả năng chạy liên tục cực lớn của động cơ hạt nhân. Từ năm 1979 đến tháng 3/1982 tàu Enterprise đã được tiếp tế nhiên liệu và cải tạo hiện đại hóa. Các kiến trúc kiểu đảo phía trên được bố trí lại, trang bị thêm tên lửa Sea Sparrow. Đến đầu thế kỷ 21 nó vẫn là lực lượng chủ yếu của hải quân Mỹ.
 
a
USS Enterprise CVN65 là tàu thứ 8 sử dụng tên Enterprise trong lịch sử thế giới, và là tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên trên thế giới.

Lượng choán nước 85.600 tấn, dài 342 m; mạn tàu rộng 40 m, đường băng rộng tối đa 76 m. Thiết bị động cơ là 8 lò phản ứng a2w, 4 tua-bin hơi nước, 4 chân vịt, tổng công suất của máy chính là 280.000 mã lực, tốc độ 33 hải lý/giờ. Thay nhiên liệu 1 lần có thể chạy 200 – 500.000 hải lý. Thân tàu Enterprise cơ bản giống với tàu sân bay lớp Kitty Hawk, đường băng được thiết kế kiểu đóng kín, từ đáy tàu đến đường băng hình thành kết cấu hình hộp tổng thể, trên hai đoạn đường băng thẳng xiên lần lượt có 2 máy phóng hơi nước, trên đường băng góc nghiêng có 4 cáp chắn và 1 mạng chắn, thang máy có 3 chiếc ở mạn tàu phải, 1 chiếc ở mạn tàu trái.

USS Enterprise từng tham gia quay hình cho bộ phim "The Hunt for Red October", và được Georges Bloom của Pháp viết vào cuốn sách "The rest life of Ocean". Trên đường băng của Enterprise đã từng xảy ra vụ rơi vỡ tan máy bay.

Tàu sân bay Nimitz CVN68

Tàu sân bay Nimitz là tàu sân bay hạt nhân thứ hai của Mỹ, là tàu đầu tiên lớp Nimitz lớn nhất thế giới. Tàu được đặt tên là CVN68. Tàu này do Công ty đóng tàu Newport News Shipbuilding (NNS) của Mỹ chế tạo. Tháng 6/1968 khởi công, tháng 5/1972 hạ thủy, tháng 5/1975 đưa vào sử dụng.
 
Đầu tiên nó được biên chế cho hạm đội Đại Tây Dương, cảng chính là Norfolk ở bờ biển phía Đông. Từ tháng 6/1983 - 9/1984 được đưa vào đại tu tại nhà máy đóng tàu, tăng thêm và đổi mới một số thiết bị. Năm 1987 nó được điều sang Hạm đội Thái Bình Dương, cảng chính là Bremerton. Còn chỗ chống của nó ở Hạm đội Đại Tây Dương được tàu Roosevelt thay thế từ tháng 9/1986. Sau khi đại tu năm 1998, nó được chuyển đến San Diego.
 
a
Tàu sân bay Nimitz là tàu sân bay hạt nhân thứ hai của Mỹ, là tàu đầu tiên lớp Nimitz lớn nhất thế giới.

- Chiều dài: 332,9 m, chiều rộng: 40,8 m, đường băng rộng tối đa 76,8 m, mớn nước 11,3 m (CVN-71 là 11,8 m, từ CVN-72 trở đi là 11,9 m).
- Thiết bị động cơ: động cơ hạt nhân với 2 lò phản ứng, 4 tuabin hơi nước, 4 động cơ diesel ứng phó với trường hợp khẩn cấp, công suất 4 chân vịt: 194 MW (260.000 mã lực), tốc độ: 30 hải lý/giờ, khả năng chạy liên tục: 800.000 - 1 triệu hải lý.
- Vũ khí trang bị chính: 3 hệ thống tên lửa phòng không Sea Sparrow, 4 hệ thống vũ khí cận chiến Phalanx (CVN-68 và CVN-69 là 3), 3 hệ thống phóng ngư lôi 324 mm, khoảng 80 máy bay cánh cố định, 6 trực thăng.
- Biên chế: 3.184 thủy thủ, 2.800 nhân viên hàng không.

Tàu sân bay Eisenhower CVN69

Tàu sân bay USS Dwight D. Eisenhower CVN-69 là tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz thứ hai của Mỹ. Con tàu này mang tên vị Tổng thống thứ 34 của Mỹ, người lãnh đạo nước Mỹ đi qua Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Dwight Eisenhower. Tàu Eisenhower được khởi công chế tạo vào năm 1970, hạ thủy năm 1975, bắt đầu gia nhập hải quân Mỹ năm 1977. Tổng chi phí chế tạo là 2 tỷ USD. Lượng choán nước tối đa là 91.500 tấn, dài 332,9 m, rộng 40,8 m, đường băng có sườn dốc dài 332,9 m, rộng 76,8 m. Kho chứa máy bay dài 208 m, rộng 33 m, cao 8 m.
 
 Tàu sân bay USS Dwight D. Eisenhower CVN-69 là tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz thứ hai của Mỹ. Con tàu này mang tên vị Tổng thống thứ 34 của Mỹ
Tàu sân bay USS Dwight D. Eisenhower CVN-69 là tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz thứ hai của Mỹ. Con tàu này mang tên vị Tổng thống thứ 34 của Mỹ.

Tốc độ cất cánh của máy bay trên tàu USS Eisenhower rất cao, trên đường băng được bố trí 4 máy phóng hơi nước được sử dụng khi máy bay cất cánh. Tỷ lệ phóng là 1 máy bay/20 giây, 7 – 8 phút có thể cất cánh được 1 phi đội. Mỗi ngày có thể xuất kích trên 200 lượt máy bay, thực hiện nhiệm vụ tấn công tầm xa. Tàu Eisenhower sử dụng động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, vì vậy có hiệu quả chiến đấu và sức răn đe lớn hơn so với tàu sân bay cỡ lớn chạy bằng động cơ thông thường.
 
Nhiên liệu hạt nhân trên tàu có thể sử dụng liên tục trong 13 năm, tốc độ lớn nhất là 33 hải lý/giờ, khả năng chạy liên tục là 800 – 1300 hải lý, không cần thêm nhiên liệu có thể chạy vòng quanh thế giới với tốc độ 30 hải lý/giờ. Nhiên liệu dành cho máy bay là 10.000 tấn, có thể bảo đảm cho máy bay trên tàu hoạt động trong 16 ngày. Trên tàu còn có trang thiết bị tiếp tế cho tàu chạy, có thể nhận tiếp tế khi đang chạy với vận tốc 20 hải lý/giờ, lượng tiếp tế là 200 tấn/giờ.

Tàu sân bay Carl Vinson CVN70

Tàu sân bay USS Carl Vinson của hải quân Mỹ được đặt theo tên của một nghị sĩ Quốc hội Mỹ vào năm 1980, có số hiệu CVN70, thuộc tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân, là tàu thứ ba của tàu sân bay lớp Nimitz của hải quân Mỹ, dài hơn 330 m, lượng choán nước tối đa hơn 90.000 tấn, tốc độ 30 hải lý/giờ, đưa vào biên chế ngày 13/3/1982. Từ tháng 3/1983 đến năm 1998, tàu sân bay USS Carl Vinson đã 8 lần đến Tây Thái Bình Dương tham gia các hoạt động quân sự. Tháng 7/1999, tàu sân bay USS Carl Vinson quay trở lại quân cảng đại tu 11 tháng. Hải quân Mỹ đã chi 220 triệu USD để cải tạo trang bị của con tàu này.
 
Tàu sân bay USS Carl Vinson của hải quân Mỹ được đặt theo tên của một nghị sĩ Quốc hội Mỹ vào năm 1980,
Tàu sân bay USS Carl Vinson của hải quân Mỹ được đặt theo tên của một nghị sĩ Quốc hội Mỹ vào năm 1980.

- Biên chế: 3.105 thủy thủ, 2885 nhân viên hàng không, 72 lính thủy đánh bộ.
- Lượng choán nước: chuẩn 81.600 tấn, tối đa 91.487 tấn.
- Thân tàu: dài 332,2 m, rộng 40,8 m. Đường băng: dài 335,6 m, rộng 77,1 m. Mớn nước: 11,3 m.
- Tốc độ tối đa: 30 hải lý/giờ. Chi phí (năm 1980): khoảng 3,9 tỷ USD.

Tàu sân bay Roosevelt CVN71

Tàu sân bay Theodore Roosevelt là tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz thứ tư của Mỹ, được khởi công chế tạo từ năm 1981, chính thức hạ thủy năm 1984. Theodore Roosevelt là vị Tổng thống thứ 26 của nước Mỹ (nhiệm kỳ 1901-1909), bản thân ông là một người hâm mộ (fan) của Hải quân. Ông chủ trương Mỹ cần có một lực lượng hải quân lớn mạnh, do đó trong nhiệm kỳ của ông, Mỹ đã hoàn thành Hạm đội Trắng (Great White Fleet, tên này xuất phát từ các vỏ tàu chiến của hạm đội khi đó đều sơn màu trắng).
Tàu Roosevelt mặc dù được chế tạo trên nền tảng tàu sân bay lớp Nimitz, nhưng 6 chiếc lớp Nimitz sau đó (kể từ Roosevelt CVN71 trở đi) đã có thay đổi rất lớn về yêu cầu tính năng, vì vậy có người thường gọi 6 chiếc tàu mới này là “tàu sân bay hạt nhân lớp Roosevelt”, nhưng đây hoàn toàn không phải là cách phân lớp chính thức của Mỹ.
 
Tàu sân bay Theodore Roosevelt là tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz thứ tư của Mỹ, được khởi công chế tạo từ năm 1981, chính thức hạ thủy năm 1984. Theodore Roosevelt là vị Tổng thống thứ 26 của nước Mỹ
Tàu sân bay Theodore Roosevelt là tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz thứ tư của Mỹ. Theodore Roosevelt là vị Tổng thống thứ 26 của nước Mỹ.

Cũng giống như Theodore Roosevelt, vị Tổng thống thứ 26 của nước Mỹ, người ra sức mở rộng lãnh thổ, tàu sân bay Roosevelt rất giàu "tính tấn công". Ngày 12/1/1991, tàu Roosevelt bôn ba đường xa, đến Biển Đỏ (Hồng Hải). Trong chiến tranh vùng Vịnh, máy bay trên tàu này tới tấp cất/hạ cánh, mang theo các loại tên lửa và bom dẫn đường laser tiến hành bắn phá điên cuồng Iraq. Hạ tuần tháng 3/1999, tàu Roosevelt dẫn đầu đội quân trên 50 tàu chiến đã ồn ào tới vịnh hẹp Adriatic.

Sáng sớm ngày 25/3, máy bay gây nhiễu điện tử EA-6B của tàu Roosevelt cùng với máy bay trinh sát điện tử ES-3A cất cánh từ căn cứ Italia, đã tiến hành “tiêu diệt mềm” đối với hệ thống chỉ huy thông tin của Nam Tư. Sau đó, 13 tàu tuần dương, tàu khu trục và tàu ngầm hạt nhân thuộc hạm đội tàu Roosevelt đã sử dụng hàng trăm quả tên lửa hành trình Tomahawk, gây ra cuộc chiến “Ax” lớn nhất trong lịch sử. Sau 2 tuần, ngày 7/4, 24 chiếc Hornet cất cánh từ tàu Roosevelt lại điên cuồng bổ nhào xuống Nam Tư, liên tục rải bom chùm (bị luật pháp quốc tế cấm) vào các mục tiêu dân sự của Nam Tư, gây ra thương vong lớn cho dân thường Nam Tư.

Tàu sân bay Lincoln CVN72

Tàu Lincoln được đặt theo tên của vị Tổng thống thứ 16 của nước Mỹ, người lãnh đạo nước Mỹ trải qua cuộc nội chiến nam bắc, đó là Abraham Lincoln. Đây là tàu lớp Nimitz thứ 5, và là tàu thứ hai sử dụng tên gọi này của hải quân Mỹ. Chiếc tàu Lincoln đầu tiên là tàu ngầm hạt nhân lớp Washington mang tên USS Abraham Lincoln SSBN-602 hạ thủy năm 1960. Tháng 28/5/1991, tàu Lincoln chạy hướng Ấn Độ Dương, tham gia chiến tranh vùng Vịnh và đã hiện diện ở biển Ả Rập khoảng 3 tháng.
 
Tàu Lincoln được đặt theo tên của vị Tổng thống thứ 16 của nước Mỹ.
Tàu Lincoln được đặt theo tên của vị Tổng thống thứ 16 của nước Mỹ.

Ngày 15/6/1993, tàu Lincoln rời khỏi cảng Alameda, đến thăm Hồng Kông, và sau đó đến Biển Ả Rập, thực hiện nhiệm vụ cấm bay đối với khu vực phía nam Iraq.

Ngày 8/10/1993, tàu Lincoln chạy hướng Somalia, châu Phi, hỗ trợ các hành động liên quan của Liên Hợp Quốc. Trong khoảng 4 tuần, máy bay trên tàu Lincoln đã không ngừng tuần tra trên bầu trời thủ đô Mogadishu của Somali và các khu vực lân cận, chi viện cho các lực lượng hành động trên mặt đất.

Tàu sân bay Washington CVN73

Tàu sân bay hạt nhân USS George Washington CVN-73 thường được gọi tắt là tàu Washington, là tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp Nimitz thứ 6 của Mỹ. Hạ thủy năm 1990, tàu sân bay Washington là tàu chiến thứ 2 mang tên người sáng lập nước Mỹ George Washington, đồng thời cũng là một trong những loại vũ khí có uy lực lớn nhất toàn cầu hiện nay. Tàu Washington được biên chế vào Hạm đội 7 năm 2008, để thay thế cho tàu USS Kitty Hawk ngừng hoạt động. Tàu Washington là tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên đóng tại Nhật Bản, với cảng chính là Yokosuka ở tỉnh Kanagawa.
 
àu sân bay hạt nhân USS George Washington CVN-73 thường được gọi tắt là tàu Washington, mang tên người sáng lập nước Mỹ George Washington.
Tàu sân bay hạt nhân USS George Washington CVN-73 thường được gọi tắt là tàu Washington, mang tên người sáng lập nước Mỹ George Washington.

- Biên chế: 3.500 thủy thủ, 2.500 nhân viên hàng không, 72 lính thủy đánh bộ.
- Lượng choán nước: chuẩn 73.973 tấn, tối đa 102.000 tấn.
- Thân tàu: dài 332,8 m, rộng 40,8 m. Đường băng: dài 335,6 m, rộng 77,4 m. Mớn nước: 11,9 m.
- Vũ khí trang bị: 3 thiết bị phóng tên lửa hạm đối không Sea Sparrow, 4 hệ thống vũ khí cận chiến Phalanx, radar tìm kiếm đối không SPS-49.
- Máy bay: 10 – 14 chiếc máy bay chiến đấu F-14 Tomcat, 36 chiếc máy bay chiến đấu/tấn công F/A-18 Hornet, máy bay tác chiến điện tử EA-6B Prowler, máy bay cảnh báo sớm E-2C Hawkeye, máy bay chống tàu ngầm S -3B Viking, máy bay trinh sát điện tử ES-3A, máy bay trực thăng chống tàu ngầm SH-60F/HH-60H, 4 hệ thống phóng máy bay.
- Xăng dầu mang theo: 9.000 tấn.
- Thiết bị động cơ: 2 lò phản ứng hạt nhân A4W, 4 tuabin hơi nước.
- Công suất động cơ: 209.000 KW. Tốc độ tối đa: 35 hải lý/giờ.

Tàu sân bay Stennis CVN74

Tàu sân bay USS John C. Stennis CVN-74 hoặc gọi tắt là tàu sân bay Stennis, là tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz thứ 7 của Mỹ, hạ thủy năm 1993, biên chế chính thức ngày 9/12/1995, cảng chính là Bremerton ở Washington, hạm đội tàu sân bay Stennis là một trong những đơn vị vũ lực chủ lực của hải quân Mỹ ở nước ngoài.

Tàu sân bay USS John C. Stennis và liên đội máy bay số 9 của nó (CVW-9) có nhiệm vụ chính là có đủ khả năng thực hiện nhiệm vụ chiến đấu liên tục trong các hành động quân sự toàn cầu. CVW-9 bao gồm 8 – 9 phi đội máy bay chiến đấu, sử dụng các loại máy bay như máy bay chiến đấu F/A-18 Hornet, máy bay tác chiến điện tử EA-6B Prowler, máy bay chống tàu ngầm S-3B Viking, máy bay cảnh báo sớm E-2C Hawkeye và máy bay trực thăng SH-60 Seahawk. CVW-9 có khả năng phá hủy các loại vũ khí như máy bay tác chiến, tàu chiến, tàu ngầm và mục tiêu mặt đất của đối phương, hoặc tiến hành nhiệm vụ thả mìn trên không từ xa. Vì vậy, nó thường được coi là lực lượng tấn công chủ yếu, chi viện cho chiến đấu mặt đất, bảo vệ an toàn cho hạm đội tàu sân bay và các chiến hữu khác, đồng thời còn có thể hoàn thành nhiệm vụ phong tỏa trên biển và trên đất liền.
 
Tàu sân bay USS John C. Stennis CVN-74 hoặc gọi tắt là tàu sân bay Stennis.
Tàu sân bay USS John C. Stennis CVN-74 hoặc gọi tắt là tàu sân bay Stennis.

Khi làm nhiệm vụ thường trực, tàu sân bay Stennis thường đóng vai trò trung tâm của hạm đội tàu sân bay, hoặc thậm chí được sử dụng như là tàu chỉ huy, trong chiến đấu thường còn có 4 – 6 các loại tàu chiến khác hỗ trợ. Hai lò phản ứng hạt nhân giúp Stennis có khả năng chạy liên tục hầu như không hạn chế, tốc độ cao nhất đạt 35 hải lý/giờ. 4 máy phóng hơi nước và 4 cáp chắn trên tàu có thể đảm bảo cho máy bay cất/hạ cánh liên tục, còn đường băng xiên và diện tích đủ lớn có thể đồng thời tiến hành nhiệm vụ cất/hạ cánh của máy bay chiến đấu, nâng cao lớn hiệu suất tác chiến. Tuy bản thân sử dụng nguồn năng lượng hạt nhân là động lực, nhưng tàu Stennis vẫn mang theo khoảng 3 triệu gallon dầu nhiên liệu, chủ yếu là cung cấp cho máy bay và tàu hộ tống sử dụng.

Ngoài ra, nó còn cất trữ lượng lớn vũ khí đạn dược để đáp ứng nhu cầu phục vụ chiến đấu ở nước ngoài trong thời gian dài. Tàu Stennis có khả năng tự sửa chữa rất mạnh, trên tàu được phối thuộc một bộ phận duy tu để sửa chữa những máy bay bị hư hỏng giữa đường, một bộ phận sữa chữa trang bị vi điện tử và một vài bộ phận sửa chữa tàu chiến.

Về phương diện khả năng tự vệ, tàu Stennis ngoài việc dựa vào sự bảo vệ của liên đội máy bay số 9 và các tàu hộ tống khác, bản thân tàu này cũng được bố trí tên lửa phòng không tầm ngắn Sea Sparrow RIM-7 của NATO, hệ thống phòng thủ gần chống tên lửa Phalanx CIWS và hệ thống tác chiến điện tử SLQ-32.

Tàu sân bay Truman CVN75

Tàu sân bay USS Harry S. Truman CVN-75 là tàu sân bay động cơ hạt nhân lớp Nimitz thứ 8 của Mỹ, khởi công năm 1993, hạ thủy năm 1996, là một trong những siêu tàu chiến mới nhất thế giới. Tàu Truman đặt theo tên vị Tổng thống thứ 33 của nước Mỹ Harry Truman. Tàu này được biên chế cho Hạm đội Đại Tây Dương của Mỹ vào tháng 7/1998.
 
 
 Tàu sân bay USS Harry S. Truman CVN-75 là tàu sân bay động cơ hạt nhân lớp Nimitz thứ 8 của Mỹ, khởi công năm 1993, hạ thủy năm 1996, là một trong những siêu tàu chiến mới nhất thế giới. Tàu Truman đặt theo tên vị Tổng thống thứ 33 của nước Mỹ Harry Truman.
Tàu sân bay USS Harry S. Truman CVN-75 đặt theo tên vị Tổng thống thứ 33 của nước Mỹ Harry Truman.

- Biên chế: 3.500 thủy thủ, 2500 nhân viên hàng không, 72 lính thủy đánh bộ.
- Lượng choán nước: chuẩn 73.973 tấn, tối đa 105.500 tấn.
- Thân tàu: dài 332,8 m, rộng 40,8 m. Đường băng: dài 335,6 m, rộng 77,4 m. Mớn nước: 11,9 m.
- Vũ khí trang bị: 3 thiết bị phóng tên lửa hạm đối không Sea Sparrow, 4 hệ thống vũ khí cận chiến Phalanx, radar tìm kiếm đối không SPS-49.
- Máy bay: Máy bay chiến đấu/tấn công F/A-18 Hornet, máy bay tác chiến điện tử EA-6B Prowler, máy bay cảnh báo sớm E-2C Hawkeye, máy bay chống tàu ngầm S-3 Pirate, 4 máy phóng máy bay.
- Nhiên liệu cung cấp cho máy bay: 9000 tấn.
- Thiết bị động cơ: 2 lò phản ứng hạt nhân A4W, 4 tuabin hơi nước.
- Công suất động cơ: 209.000 KW. Tốc độ tối đa: 35 hải lý/giờ.

Tàu sân bay Ronald Reagan CVN76

Tàu sân bay USS Ronald Reagan CVN-76 là tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz thứ 9 của Mỹ, cũng là tàu sân bay đầu tiên của Mỹ sau khi bước vào thế kỷ 21. Con tàu này được hoàn thành hạ thủy năm 2001, được đặt theo tên vị Tổng thống Mỹ thứ 40 Ronald Reagan, cảng chính của tàu Reagan là San Diego, California, hiện nay phục vụ cho Hạm đội Thái Bình Dương của quân Mỹ.
 
Tàu sân bay USS Ronald Reagan CVN-76 là tàu sân bay hạt nhân lớp Nimitz thứ 9 của Mỹ, cũng là tàu sân bay đầu tiên của Mỹ sau khi bước vào thế kỷ 21. Con tàu này được hoàn thành hạ thủy năm 2001, được đặt theo tên vị Tổng thống Mỹ thứ 40 Ronald Reagan
Tàu sân bay USS Ronald Reagan CVN-76 được đặt theo tên vị Tổng thống Mỹ thứ 40 Ronald Reagan.

- NATO code: biệt danh Reagan.
- Tàu cùng cấp: cvn68, cvn69, cvn70, cvn71, cvn72, cvn73, cvn74, cvn75, cvn76.
- Hệ thống vũ khí: 3 máy phóng tên lửa Mk29 Sea Sparrow, 4 pháo MK15, 1 phi đội F-14 Panda, 3 phi đội F/A-18 Hornet, 4 chiếc EA-6B Prowler, 4 chiếc E-2C Hawkeye, 6 chiếc S-3 Viking, 2 chiếc E3B Shadow, 8 chiếc SH-60F Seahawk, hệ thống điện tử SH-3F Neptune SPS49 (V) 5, SPS48E (V) 3D đối không, SPS 67V đối biển, SPS64 (V) 9 dẫn đường, SQS 23 sonar.
- Chiều dài: 332,8 m.Chiều rộng: 40,8 m.Mớn nước: 11,9 m.
- Lượng choán nước: chuẩn 73.973 tấn; tối đa: 105.500 tấn.Tốc độ tối đa: 32 hải lý/giờ.
- Công suất máy chính: 205.800 KW. Biên chế: 6.093 người. Số lượng máy bay: 80 chiếc.

Tàu sân bay Bush CVN76

Tàu sân bay hạt nhân George H.W.Bush gọi tắt là tàu sân bay Bush. CVN-77 là sự tiếp nối cải tiến của CVN-76, đường băng không thay đổi lớn như ý tưởng ban đầu, làm nền cho thiết kế cải tiến CVN-78. Đây là con tàu lớp Nimitz cuối cùng của Mỹ. Theo tiết lộ của nguồn tin cấp cao hải quân Mỹ, CVN-77 là tàu thử nghiệm CVX của thế hệ tàu sân bay mới, một số công nghệ sẽ dùng thử trên CVN-77, sau khi hoàn thiện sẽ dùng để chế tạo tàu CVX.

Ngày 9/12/2002, chiếc tàu sân bay này chính thức được đặt tên là Bush. Tàu dài 332 m, từ đường mớn nước của thân tàu trở lên cao khoảng tòa nhà 20 tầng, có thể chở gần 6.000 thủy thủ và thủy quân lục chiến. Tốc độ tối đa 30 hải lý/giờ, lượng choán nước tối đa trên 100.000 tấn, có thể mang theo tối đa 100 máy bay, chi phí chế tạo 6,2 tỷ USD.
 
Tàu sân bay hạt nhân George H.W.Bush gọi tắt là tàu sân bay Bush.
Tàu sân bay hạt nhân George H.W.Bush gọi tắt là tàu sân bay Bush.

Tàu sân bay Bush từ khi chế tạo đến nay đã được 8 năm, khởi công từ năm 2003, làm lễ đặt tên năm 2006. Sau khi hoàn thành thử nghiệm trên biển, ngày 10/1/2009 làm lễ biên chế tại căn cứ hải quân Norfolk, bắt đầu phục vụ chính thức cho hải quân Mỹ.

Tàu Bush là tàu tiên tiến nhất trong những tàu sân bay lớp Nimitz. So với tàu sân bay Ronald Reagan CVN 76, tàu sân bay Bush đã được cải tiến mang tính thực chất và đã áp dụng nhiều công nghệ mới. Chẳng hạn, đã sử dụng hệ thống vệ sinh chân không trên biển mới, hệ thống phân phối nhiên liệu mới (cho máy bay), còn có một lượng lớn hệ thống điều khiển và vật liệu đường ống mới. Những cải tiến này sẽ làm giảm chi phí cho tuổi thọ tàu sân bay.
 
TIN LIÊN QUAN

Tàu sân bay lớp Nimitz là tàu chiến lớn nhất thế giới hiện nay, cũng là tàu sân bay tiên tiến nhất, đặc biệt là tàu George Bush. Do chế tạo muộn, nó đã sử dụng công nghệ tiên tiến hơn, mức độ hiện đại hóa cao hơn. Về động cơ, hai lò phản ứng hạt nhân trên tàu có thể cung cấp cho tàu chiến hoạt động 20 năm mà không cần thêm nhiên liệu.

Về mặt phòng thủ tự vệ, dù cho phòng thủ dưới nước, phòng thủ đối với tên lửa chống hạm, nó đều được coi trọng hơn, bao gồm hai mạn tàu, đáy tàu, kho chứa máy bay, đường băng đều có kết cấu 2 tầng, trong tàu có hàng chục vách ngăn kín nước dày, bộ phận dưới nước được tăng dày cho sàn tàu, khoang chống ngư lôi nhiều tầng.

Về phương diện khả năng tấn công, nó có thể mang nhiều nhất là gần 100 máy bay và có nhiều hệ thống phóng tên lửa đối không và pháo phòng thủ gần.

Do trong tương lai Mỹ sẽ thực hiện phương án thiết kế tàu sân bay hoàn toàn mới, cho nên là tàu sân bay cuối cùng thiết kế theo kiểu cũ, tàu George Bush đã thể hiện được nhiều công nghệ mới nhất hơn, ví dụ nó sở hữu radar và thiết bị dẫn đường tiên tiến hơn, dây cáp và ăng-ten đều được lắp đặt ở bên trong, từ đó làm nổi bật hơn khả năng tàng hình; mức độ quản lý tự động hóa của nó cao hơn, thức ăn vận chuyển 1 lần trên tàu có thể cung cấp cho 6000 binh sĩ cả tàu sử dụng trong vòng 90 ngày.

Tàu sân bay lớp Nimitz đầu tiên là Nimitz CVN-68 được biên chế năm 1975, tàu sân bay thứ 9 là Ronald Reagan CVN-76 được đưa vào sử dụng năm 2003, tàu sân bay tiếp theo là Gerald Ford CVN-78 sẽ được chế tạo theo phương án mới “tàu sân bay thế kỷ 21”. Tàu sân bay lớp Nimitz là tàu chiến lớn nhất thế giới, lượng choán nước vượt 100.000 tấn, dài 330 m, tốc độ trên 30 hải lý/giờ, mang theo tối đa gần 100 máy bay, trong điều kiện bình thường mang theo 60-70 máy bay và trực thăn
                                                                                                                                          Theo: 

Read more…

Danh tướng Mã Siêu một trong Ngũ hổ tướng của Lưu Bị

Thứ Sáu, tháng 11 11, 2011 |

(Thâm cung bí sử) - Việc La Quán Trung, tác giả của “Tam Quốc diễn nghĩa” miêu tả Mã Siêu như vậy có lẽ là vì để “bôi xấu” Tào Tháo hoặc vì một ý đồ nào khác. Bởi lẽ, theo những gì được ghi chép trong “Tam Quốc Chí”, cuốn sử được cho là chính xác nhất về thời Tam Quốc thì Mã Siêu không phải là một nhân vật uy phong lẫm liệt đến như vậy.

Ngược lại, Mã Siêu là một kẻ đầy dã tâm, tàn bạo những ít mưu lược, hành động không thể coi là một người tốt chứ đừng nói là một anh hùng oai phong lẫm liệt như mô tả của “Tam Quốc diễn nghĩa”…

1. Trong cuốn tiểu thuyết “Tam Quốc diễn nghĩa” nổi tiếng, Mã Siêu là một trong “Ngũ hổ tướng” dưới trướng của Lưu Bị.

Theo thứ tự thì “Ngũ hổ tướng” bao gồm Quan (Quan Vũ) – Trương (Tương Phi) – Triệu (Triệu Vân) – Mã (Mã Siêu) – Hoàng (Hoàng Trung), như vậy, Mã Siêu xếp ở vị trí thứ 4. Cách sắp xếp này cũng có lý do của nó.

Nếu như so tài với nhau thì Quan, Trương, Triệu - ba người chắc chắn không thể thua, hoặc chí ít cũng ngang ngửa với Mã Siêu. Tuy nhiên, Hoàng Trung do tuổi tác đã cao, nếu một khi đọ sức, có lẽ khó có thể thắng được 1 người tuổi còn thanh niên tráng kiện như Mã Siêu, vì vậy mới đành xếp ở vị trí cuối cùng.

Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Mã Siêu và cha mình là Mã Đằng cùng với Hàn Toại là những địa chủ vùng Tây Lương. Ban đầu Mã và Hàn tập hợp binh mã, keo về Trường An với ý định thảo phạt những thủ hạ dưới quyền của Đổng Trác nhưng không may bị quân của Trác đánh bại buộc phải rút chạy về Tây Lương.
Sau đó, Mã Đằng cùng con cháu của mình lại tiếp tục nhận được mật chiếu của Hán Hiến Đế, dẫn binh tấn công tiêu diệt Tào Tháo.

Tuy nhiên, mật chiếu bị tiết lộ, Mã Đằng bị Tháo giết chết, chỉ có cháu là Mã Đại chạy thoát về Tây Lương. Mã Siêu khi đó được giao nhiệm vụ ở lại trấn thủ Tây Lương, nghe được tin này nổi giận đùng đùng, cùng với Hàn Toại dẫn quân kéo xuống Trường An báo thù cho cha và những người anh em của mình.

Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Tào Tháo rất sợ họ Mã. Trong trận chiến Xích Bích, Từ Thứ biết trước Tháo sẽ thất bại, muốn tìm cách rời khỏi Xích Bích để tránh họa sát thân. Bàng Thống đã chỉ cho Từ Thứ một cách là nói dối rằng, họ Mã ở Tây Lương đang nổi dậy làm phản khiến Tào Tháo lo lắng, lệnh cho Thứ quay về trấn thủ ở Đồng Quan.

 Nhờ thế, Từ Thứ mới thoát khỏi được trận hỏa chiến đẫm máu ở Xích Bích. Sau đó thì Mã Siêu cùng các địa chủ Tây Lương nổi dậy chống lại Tào Tháo thật. Để đối phó với Mã Siêu, Tào Tháo đã tự mình dẫn theo đại quân cùng với những danh tướng dưới trướng như Từ Hoảng, Hứa Chử,…
Mã Siêu trên phim
Mã Siêu trên phim

 Trong những trận ác chiến giữa hai bên ở Đồng Quan, Tào Tháo nhiều lần bị quân Mã Siêu đánh cho tan tác, có lần phải cắt râu, vứt áo, có lần phải xuống sông tranh thuyền với quân lính mà chạy trốn,… thậm chí có lần, Tháo suýt chết dưới thương của Mã Siêu.

 Biết dùng võ không thể thắng được Mã Siêu, Tháo bèn dùng mưu. Ban đầu, Tào Tháo dùng kế ly gián Hàn Toại và Mã Siêu rồi lần lượt đánh bại từng người một. Mã Siêu thất bại phải chạy về Tây Lương.

Hai năm sau đó, Mã Siêu lại dấy binh định tấn công Tào Tháo một lần nữa. Tuy nhiên, lần này Mã Siêu chỉ tung hoành ở vùng Long Hữu, chưa vượt ra được khỏi Tây Lương thì bị các quan cai trị địa phương là Dương Phụ, Khương Tự,… đánh bại. Lúc này, Mã Siêu rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”, chỉ đành theo về với Trương Lỗ ở Hán Trung.

Dưới trướng của Trương Lỗ, Mã Siêu nhiều lần đề nghị Lỗ phát binh tấn công Tào Tháo nhưng không thành, lại thêm, nhiều đại tướng của Trương Lỗ luôn tìm cách gây hiềm khích với Mã Siêu, vì vậy, khi Trương Lỗ phái Mã Siêu mang quân tấn công Lưu Bị, Mã bèn trở mặt theo luôn Lưu Bị.

Lúc bấy giờ, Ích Châu Mục (quan cai trị ở Ích Châu) là Lưu Chương nghe tin Mã Siêu theo về với Lưu Bị bèn mang quân tấn công Thành Đô.

Nhân lúc tình hình rối loạn, Lưu Bị đã lấy được Ích Châu. Sau đó, dưới trướng của Lưu Bị, Mã Siêu luôn được giao nhiệm vụ trấn giữ trận địa phía Tây bởi lẽ mối quan hệ giữa Mã và người Khương, Hồ ở Tây Lương khá tốt. Không lâu sau đó, Mã Siêu qua đời khi mới ở tuổi 47.

“Tam Quốc diễn nghĩa” miêu tả Mã Siêu là: “Mặt như mũ ngọc, mắt như sao sa, thân hổ, tay khỉ, bụng hổ, eo sói”. Theo quan điểm thời bấy giờ, Mã Siêu được coi là một người tuấn tú khôi ngôi, dũng cảm vô địch. Do Mã Siêu rất thích mặc màu trắng nên còn có biệt danh là “Cảm Mã Siêu”. Từ khi còn nhỏ, Mã Siêu đã theo cha thảo trừ bọn phản loạn.

Sau đó, vì Tào Tháo giết chết cha và những người anh em của Mã Siêu nên Mã Siêu nhiều lần khởi binh tiêu diệt Tào Tháo. Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Tào Tháo là một nhân vật phản diện, Mã Siêu dấy binh thảo phạt Tào Tháo là báo đáp cho quốc gia.

Mang cả nợ nước lẫn thù nhà, có thể nói, Mã Siêu là 1 nhân vật thuộc về phe “chính diện” trong cuốn tiểu thuyết nổi danh “Tam Quốc diễn nghĩa”.

Việc La Quán Trung, tác giả của “Tam Quốc diễn nghĩa” miêu tả Mã Siêu như vậy có lẽ là vì để “bôi xấu” Tào Tháo hoặc vì một ý đồ nào khác. Bởi lẽ, theo những gì được ghi chép “Tam Quốc Chí”, cuốn sử được cho là chính xác nhất về thời Tam Quốc thì Mã Siêu không phải là một nhân vật uy phong lẫm liệt đến như vậy.

Ngược lại, Mã Siêu là 1 kẻ đầy dã tâm, tàn bạo những ít mưu lược, hành động không thể coi là một người tốt chứ đừng nói là một anh hùng oai phong lẫm liệt như mô tả của “Tam Quốc diễn nghĩa”.

2. Câu chuyện có lẽ phải bắt đầu từ Mã Đằng và Hàn Toại trở đi.. Mã Đằng tự là Thọ Thành, là hậu duệ của Phục Ba Tướng quân Mã Viện nhờ công lao trong việc chinh chiến, từ một thường dân, Mã Đằng được phong làm Chinh Tây, rồi Chinh Đông Tướng quân.

Họ Mã nhiều đời sống tại Long Hữu. Hàn Toại tự là Văn Ước, ban đầu cùng với Biên Chương nổi loạn ở khu vực phía bắc của Tây Lương. Người theo về có tới hơn chục vạn, triều đình không thể dẹp nổi.

Sau đó, Biên Chương chết, triều đình bèn phong cho Hàn Toại làm Trấn Tây Tướng quân, Hàn trở mặt đồng ý quy thuận triều đình. Mã Đằng và Hàn Toại ban đầu kết làm anh em kết nghĩa, sau đó, do thuộc hạ tấn công lẫn nhau, thành ra hai vị chủ tướng vì bảo vệ thuộc hạ mà trở mặt thành thù, bắt đầu tấn công nhau.

Ban đầu, Mã Đằng giành thắng lợi, Hàn Toại thua trận phải rút lui. Sau đó, Hàn Toại lại quay lại đánh bại Mã Đằng, còn giết cả vợ của Mã Đằng. Từ đó, hai bên đánh nhau không dứt, mãi cho tới khi quan Tư lệ Hiệu úy là Chung Dao tới giải hòa thì hai bên mới chấm dứt.

Trong trận chiến Quan Độ giữa quân Tào Tháo và Viên Thiệu sau đó, cháu của Viên Thiệu là Cao Can cùng đại tướng quân Quách Viện đêm quân đột kích Trường An.

Chung Dao bèn báo cho Mã Đằng, Mã Đằng sai Mã Siêu dẫn hơn một vạn tinh binh hợp lực với Chung Dao đánh bại Cao Can và Thiền vu của Hung Nô. Bộ tướng của Mã Siêu là Bàng Đức chặt được đầu của đại tướng quân Quách Viện (Quách Viện là cháu họ ngoại của Chung Dao).

Sau đó, Cao Can nhiều lần đem quân tấn công đều bị Chung Dao, Mã Đằng và Mã Siêu dẫn quân đánh bại. Khi Tào Tháo dẫn quân tấn công Kinh Châu, Mã Đằng ở lại trấn giữ quan Trung.

Năm Kiến An thứ 13, tức năm 208, do muốn tránh cục diện quận phiệt cát cứ hỗn loạn ở Quân Tây tái diễn, Chung Dao đã ra lệnh cho Mã Đằng về triều làm quan. Mã Đằng khi đó tuổi tác đã cao vì thế đã đồng ý chức quan 2.000 thạch đó, chấp nhận về kinh sư.

Lúc đó, Tào Tháo đã ngay lập tức phong cho Mã Đằng làm Vệ Úy, hai em trai ruột của Mã Siêu là Mã Hưu và Mã Thiết được phong làm Phụng Xa Đô Úy và Kỵ Đô Úy, theo Mã Đằng và gia quyến cùng dời đến sống tại Nghiệp Quận. Ngoài ra, Tháo còn phong cho Mã Siêu làm Biên Tướng Quân, một mình ở lại Quân Tây thống lĩnh quân lính của Mã Đằng. Đồng thời, Hàn Toại cũng đưa con trai của mình về kinh làm con tin.

Tới năm Kiến An thứ 16, tức năm 211, Mã Siêu không quản gì tới tính mạng của cha cũng như các em của mình ở Nghiệp Quận, dấy binh làm phản.

Hậu quả trực tiếp của hành động này, đương nhiên là khiến cho cha, hai em trai và toàn bộ gia tộc họ Mã ở kinh đô đều mắc tội phản loạn, hoặc bị chặt đầu hoặc bị nhốt vào ngục tối, tổng cộng có tới hơn 100 người.

Lần đó, Tào Tháo có thể coi đã cư xử rất đáng mặt anh hùng với gia tộc họ Mã. Mãi tới tháng 5 năm sau mới ra lệnh chém đầu Mã Đằng và gia tộc họ Mã.
Mã Đằng
Mã Đằng
Không bàn tới tính tàn bạo của chế độ một người có tội chém cả ba họ dưới thời phong kiến, chỉ nói tới tình thế cụ thể lúc bấy giờ thì có thể thấy là việc triều đình nhà Hán bắt giữ con tin của các chư hầu, quân phiệt địa phương để tránh tình trạng cát cứ không phải là không có lý.

Trong khi đó, trong khi triều đình trung ương chưa có bất cứ hành động nào đe dọa tới mình, chỉ vì một lý do rất vẩn vơ là “nghi Chung Dao tấn công”, Mã Siêu đã cùng Hàn Toại, Dương Thu, Lý Khám,… tập hợp binh mã nổi loạn. Mục đích hành động này của Mã Siêu chính là muốn cát cứ xưng bá ở Tây Lương, làm một hoàng đế địa phương.

Chỉ cần xem cách hành xử của Mã Siêu khi gặp bất lợi trong cuộc chiến ở Đồng Quan có thể thấy rất rõ: Khi đó, Mã Siêu đóng trại ở phía Nam sông Vị, sai người tới xin lấy phần đất từ phía Tây sông trở đi và cầu hòa nhưng Tháo không đồng ý.

 Tháng chín, Tháo mang quân vượt sông tấn công Mã Siêu. Mã Siêu và đồng bọn bỏ chạy rồi sai người tới xin cắt đất cầu hòa…

Rõ ràng, Mã Siêu coi đất đai của triều Hán như đất sau vườn nhà mình, thích chiếm lúc nào thì chiếm. Bởi lẽ, nếu không như vậy thì sao có thể dễ dàng dấy binh nổi loạn, rồi khi thất thế lại xin cắt đất cầu hòa như vậy được.

 Tuy nhiên, đất mà Mã Siêu muốn cắt không phải là đất riêng nhà họ Mã mà là đất đai của Hán triều, do vậy, Tào Tháo thân là thừa tướng triều Hán không thể đồng ý một điều kiện đàm phán như vậy được.

Trong khi trước đó, khi dấy binh làm phản, Mã Siêu còn yêu cầu Hàn Toại bỏ mặc những người thân của mình đang bị giữ làm con tin ở kinh đô. Lúc đó, Mã Siêu đã nói với Hàn Toại rằng: “Nay Siêu này đã bỏ cha, nhận tướng quân làm cha thì tướng quân cũng nên bỏ con, nhận tôi làm con”.

Với hành động này, Mã Siêu không chỉ “bất trung” mà còn là kẻ “bất hiếu”, “bất nghĩa”. Nổi binh chống lại triều đình với ý định cát cứ, xưng bá một vùng mà không hề có lý do chính đáng, ấy là “bất trung”. Con mà không quan tâm tới tính mạng của cha mẹ ấy là “bất hiêu”.

Làm người mà không thèm quan tâm tới tính mạng của anh em, họ tộc, ấy là “bất nghĩa”. Có thể thấy rõ, Mã Siêu là người vì muốn đạt mục đích của  mình, không quản gì tới chuyện sống chết của những người trong gia đình. Một người như vậy chẳng phải là kẻ lòng lang dạ sói hay sao.

3. Còn như chuyện Mã Siêu là kẻ hữu dũng vô mưu thì có lẽ ai cũng biết cả. Bởi lẽ, hầu như chẳng hề có cuốn sách nào, kể cả “Tam Quốc diễn nghĩa” nói Mã Siêu là một người túc trí đa mưu. Chỉ cần xem thái độ của Tào Tháo khi quân tiếp viện của Mã Siêu liên tục kéo đến cũng đủ biết, Tháo xem thường trí mưu của Mã Siêu tới mức nào.

Sách “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ, phần Ngụy Thư, chương Vũ Đế Bản Kỷ có đoạn chép: “Mỗi lần có quân tiếp viện của Mã Siêu kéo đến, Tào Tháo lại lộ rõ vẻ mặt vui mừng. Sau khi đánh bại Mã Siêu, các tướng mới hỏi vì sao Tháo lại có vẻ mặt như vậy mỗi khi Mã Siêu có quân tiếp viện.
Mã Chao
Mã Chao

 Tào Tháo đáp: Đất Quan Trung rộng lớn, xa xôi, nếu như quân địch dựa vào địa thế hiểm trở mà đánh thì muốn tiêu diệt chúng, ít nhất cũng mất một tới hai năm. Nay quân địch lại tập hợp lại một chỗ, quân của chúng tuy đông nhưng lại ô hợp, quân không nghe lời chủ tướng thì chỉ cần một trận có thể tiêu diệt sạch. Vì thế mà ta mới vui mừng”.

Nếu như Mã Siêu là kẻ túc trí đã mưu, Tào Tháo không bao giờ có thể có thái độ chắc thắng như vậy. Bởi lẽ, việc viện quân kéo đến tiếp trợ là một mối uy hiếp rất lớn.

Tuy nhiên, Tào Tháo lại rất coi thường, cho rằng, quân tuy đông nhưng chỉ cần một trận là có thể diệt sạch. Tào Tháo có thể chắc chắn rằng, không quản quân Mã Siêu đông tới mức nào, chỉ cần một trận là tiêu diệt gọn gàng. Điều đó cho thấy, Tào Tháo rất coi thường trí lược cầm quân của Mã Siêu.

Sau khi bị Tào Tháo đánh bại lần thứ nhất ở Đồng Quan, lần thứ hai Mã Siêu khởi binh, quân chưa vượt ra khỏi Tây Lương đã bị các quan lại địa phương đánh cho tan tác khiến rơi vào cảnh “tiến thoái lưỡng nan”. Vì vậy, có thể nói, việc Mã Siêu là kẻ hữu dũng vô mưu là chuyện không cần phải tranh cãi nhiều.

Tiếp đến là sự tàn bạo của Mã Siêu. Chỉ riêng việc Mã Siêu bỏ mặc cha mình là Mã Đằng, hai em trai là Mã Hưu và Mã Thiết cùng toàn bộ gia quyến họ Mã  hơn một trăm mạng người ở kinh đô, mặc cho Tào Tháo lấy cớ Siêu làm phản mà giết hoặc giam vào ngục tối, phải chịu khổ sở cũng đủ thấy Mã Siêu là nhẫn tâm tới mức nào.

Nhiều người có thể lấy cái gọi là “đại nghĩa diệt thân” để biện minh cho Mã Siêu. Tuy nhiên, hành động nổi loạn của Mã Siêu không hề có chút “đại nghĩa” nào.

Hơn nữa, ngay cả những người vì “đại nghĩa” mà phải diệt thân cũng là trong trường hợp bất khả kháng mới phải làm như vậy.

Còn như Mã Siêu thì đã chủ đích như vậy ngay từ đầu. Cứ xem cách nói của Mã Siêu với Hàn Toại đã dẫn ở trên thì cũng đủ rõ. Mã Siêu bỏ mặc cha mẹ, các em và thân thích của mình bị chém đầu mà nhẹ như lông hồng, chẳng có chút day dứt nào. Một người như vậy chẳng phải là tàn nhẫn quá lắm hay sao?

Ngoài ra, trong cuộc nổi dậy lần thứ hai, Mã Siêu không những giết đi rất nhiều quan lại cao cấp của triều Hán đã đầu hàng mình, từ thái thú tới thích sử mà còn giết rất nhiều người nhà của các quan lại chống cự lại mình. Trong số này, nổi tiếng nhất chính là việc Mã Siêu giết chết mẹ ruột của Phủ Di Tướng quân Khương Tự.

Sử chép rằng, quân lính của Siêu bắt được mẹ đẻ của Khương Tự giải đến chỗ Mã Siêu. Khương mẫu vừa nhìn thấy Mã Siêu lớn tiếng mắng rằng: “Mày là đứa con bất hiếu, phản lại cha mình, là tên giặc đáng chết giết vua. Mày là đứa trời không dung, đất không tha. Mày không chết đi mà còn dám mang mặt mũi mà nhìn người ta hay sao!”.

Mã Siêu nghe chửi như vậy liền nổi giận ra lệnh mang bà lão ra chém đầu. Chỉ một ví dụ như vậy cũng đủ thấy Mã Siêu là kẻ tàn bạo tới mức nào.

Bây giờ chúng ta sẽ xem Mã Siêu dũng cảm tới mức nào. “Tam Quốc diễn nghĩa” đã dành cho Mã Siêu rất nhiều “ưu đãi” khi miêu tả Siêu như một dũng tướng oai phong lẫm liệt, ngàn người khó địch, xếp vị trí thứ 4 trong số “Ngũ hổ tướng” của nhà Thục Hán.

Tuy nhiên, thực tế thì Mã Siêu không được “dũng mãnh” như vậy. Chỉ cần xem đoạn miêu tả cuộc đối đầu giữa Mã Siêu và Tào Tháo trong trận Đồng Quan có thể thấy rất rõ điều này.

 Sử sách chép rằng, trong trận chiến Đồng Quan, có lần Mã Siêu và Tào Tháo đã có một giáp mặt trực tiếp trên chiến trường. Lúc đó, Tào Tháo và Hàn Toại, Mã Siêu cưỡi ngựa tới trước trận tiền nói chuyện với nhau.

 Mã Siêu ỷ vào mình có sức lực định ngấm ngầm nhân lúc Tào Tháo nói chuyện với Hàn Toại không để ý, xông lên bắt sống Tháo. Không ngờ, vừa xông lên thì bị tướng của Tháo là Hứa Chử đứng bên, trợn mắt lườm một cái, Siêu co rúm người, không dám động đậy nữa.

Từ đoạn miêu tả này có thể thấy, lúc đó hai bên có 4 người, Hàn Toại, Mã Siêu một bên, Tào Tháo và Hứa Chử một bên, hai đấu hai, tạm coi là cân bằng nếu không nói là ưu thế nghiêng về phe Mã Siêu. Thế nhưng Hứa Chử chỉ mới trợn mắt lườm một cái, Mã Siêu đã “không dám động đậy”.

Một dũng tướng dày dặn chiến trường, nổi tiếng vũ dũng mà kẻ địch mới trợn mắt một cái đã co rúm người thì làm sao có thể gọi là “uy dũng” được. Ngoài ra, còn một chuyện mà rất ít người biết, đó là khi diễn ra cuộc chiến loạn giữa cha Siêu là Mã Đằng và Hàn Toại, Mã Siêu và con rể của Hàn Toại là Diêm Hành đã có một trận đối đầu rất đáng hổ thẹn.

Sử chép: “Năm Kiến An thứ nhất, Hàn Toại và Mã Đằng đánh lẫn nhau. Con trai của Đằng là Siêu đánh nhau với con rể của Hàn Toại là Diêm Hành.

Hành đâm Siêu, nhưng do chiếc mâu bị gãy nên chỉ sượt qua đầu Siêu, suýt giết được Siêu”. Có thể nói, lúc bấy giờ, nếu như chiếc mâu của của Hành không bị gãy thì có lẽ đầu của Mã Siêu đã thêm một cái lỗ, về theo tổ tiên từ lâu.

Phải nói thêm rằng, trong sử sách, chẳng có bao nhiêu người biết Diêm Hành là ai. Ngay cả “Tam Quốc diễn nghĩa” cũng không thấy bóng dáng của nhân vật này.

Một kẻ không tên không tuổi như Diêm Hành mà suýt chút nữa đã có thể giết chết được 1 dũng tướng uy danh, xếp ở vị trí thứ 4 trong “Ngũ hổ tướng” thì chẳng phải là điều khó tin lắm hay sao? Từ đó, chỉ có thể nói rằng, cái uy phong lẫm liệt của “Cẩm Mã Siêu” thực ra chỉ là cái danh hão mà tác giả “Tam Quốc diễn nghĩa” đã gán cho Siêu nhằm bôi xấu TàoTháo mà thôi.
Read more…

Kỳ bí

Thứ Sáu, tháng 11 11, 2011 |


Read more…